cho công lý, nhóm phát ngôn cho các lực lượng quần chúng và những
người hy sinh cho đấu tranh dân chủ. Năng lực của Park và những
người bất đồng chaeya đã cùng phát triển dù theo những cách khác
biệt.
Sự phát triển sức mạnh khác biệt của nhà nước và chaeya phần nào
lý giải được nhiều tình huống phức tạp trong quỹ đạo phát triển của
Hàn Quốc. Tuy Hàn Quốc tự hào với quá khứ lật đổ chế độ Lý Thừa
Vãn
(1948-1960) trong một cuộc “cách mạng sinh viên” và áp
dụng hệ thống nghị viện cầm quyền dân chủ dưới thời Chang Myon
(1960- 1961) nhưng vào thời điểm đảo chính quân sự của Park, xã hội
dân sự vẫn còn rất yếu, điều này cho phép Park trấn áp tất cả các hình
thức chống đối chính trị mà không gặp phải sự kháng cự xã hội nào
vào năm 1961 (Chương 1, 2 và 3). Sự biến đổi nhanh chóng hướng về
những điều giống như hướng đi đối lập với các xu hướng trong quá
khứ và đối lập với tình hình hiện tại tiếp tục diễn ra ở những năm Đệ
tam Cộng Hòa “dân sự” và thời kỳ ỵushin của Park Chung Hee. Việc
bình thường hóa quan hệ với Nhật Bản đã châm ngòi cho sự bùng nổ
các cuộc biểu tình sinh viên năm 1965 nhưng khi thiết quân luật được
tuyên bố và sự bình thường hóa ngoại giao được thông báo như một sự
đã rồi thì trật tự chính trị lại nhanh chóng tái lập (Chương 14). Điều
tương tự cũng diễn ra với những cuộc biểu tình chống đối từ phía
chaeya dưới chế độ yushin của Park. Chúng đã biến mất đột ngột như
khi chúng bùng nổ không hề báo trước khiến cho tình hình chính trị
náo loạn, bất ổn và do đó cực kỳ căng thẳng (Chương 8 và 13). Tình
trạng thù địch từ phía quần chúng lan rộng cũng có thể được kiểm soát
và thậm chí là đảo ngược thành phong trào ủng hộ vào những thời
điểm có các cú sốc bên ngoài như vụ ám sát phu nhân của ông, bà Yuk
Yong-su, năm 1974 và thất bại của Mỹ ở miền Nam Việt Nam năm
1975 (Chương 15). Chính sự bất ổn này cũng ngụ ý về tình thế chính
trị mong manh của Park. Ngay cả sau mỗi đợt trấn áp các hoạt động
đối lập có vẻ thành công thì ông vẫn phải tiếp tục áp dụng các biện