John Armstrong, một nhà phân tích tình báo trẻ trong Cơ quan Tình
báo Quốc phòng, báo cáo về một mức gia tăng đáng kể tiềm lực quân
sự của Triều Tiên kể từ năm 1972. Tháng 1 năm 1978, Đại tướng John
W. Vessey, Tư lệnh USFK, yêu cầu Bộ Quốc phòng tái đánh giá tiềm
lực quân sự của Triều Tiên khi nghe phân tích tình báo bất ngờ của
Armstrong. Tin tức về bản đánh giá sau đó của Bộ Quốc phòng rò rỉ
đến tờ Army Times tháng 1 năm 1979, điều này đã biến báo cáo của
Amstrong trở thành một vấn đề chính trị. Hơn nữa, từ giữa năm 1978
trở đi, kết quả của các nghiên cứu rộng khắp về tiềm lực quân sự của
Triều Tiên trở nên nhiều hơn các báo cáo tình báo bí mật, do đó đặt
Carter vào vị thế phòng thủ hơn nữa. Báo cáo của Amstrong cùng các
báo cáo khác cho thấy quân đội Triều Tiên đã gia tăng gấp đôi về quy
mô so với quân đội Hàn Quốc.
Khi một số phát hiện được công
bố, Quốc hội có được thế thượng phong so với Carter về vấn đề rút
quân.
Hội đồng An ninh Quốc gia (NSC) cũng bắt đầu chuẩn bị Biên bản
Đánh giá Tổng thống 45 (PMR-45) dựa trên những ước tính mới về
quân đội Triều Tiên tháng 1 năm 1979. PRM-45, văn bản kêu gọi
“đánh giá toàn diện các mục tiêu và chính sách của Mỹ đối với [Nam]
Triều Tiên”, là kết quả của các nỗ lực kết hợp của Hội đồng An ninh
Quốc gia và Bộ Ngoại giao. Vance yêu cầu Vụ trưởng Ngoại giao
Richard C. Holbrook tổ chức một sự phối hợp để đảo ngược kế hoạch
rút quân của Carter bằng cách chuẩn bị PRM-45, tái đánh giá cán cân
quân sự trên Bán đảo Triều Tiên và lên kế hoạch cho chuyến đi Đông
Á của Carter. PRM-45 có tác dụng khiến chính quyền Carter vốn
“theo chủ nghĩa biệt lập” ủng hộ việc ngăn chặn các mối đe dọa từ
Liên Xô và các đồng minh của nước này, kể cả Triều Tiên. Gleysteen
nhớ lại sự hiện diện của Vance ở cuộc họp NSC về PRM-45 vào tháng
5 năm 1979 và cho đó là điềm báo trước về việc đảo ngược chính sách
rút quân của Carter.