tuyên bố rằng Lễ Giao thừa là thói quen của bọn tư sản, không phù hợp với
người Xô viết, lại càng không hợp với sĩ quan Hồng quân. Anh ta mời
chúng tôi uống sữa với bánh mì đen và chỉ thả chúng tôi ra khi trời đã sáng,
lúc giao thừa đã qua từ lâu.
Mùa đông tới, tuyết bắt đầu rơi và chúng tôi đã sẵn sàng để ra trận. Tôi
được phân công vào trung đội thông tin, vô tuyến điện và điện thoại. Trung
đội có nhiều trang thiết bị còn binh lính thì rất ương bướng ngang ngạnh.
Chúng tôi đóng lại móng ngựa, tra dầu mỡ vào súng và chất các trang thiết
bị lên xe ngựa.
Một lần, trong buổi điểm danh cuối ngày của trung đội, tôi tiến lại một
người lính đứng trong hàng và chỉ cho xem đôi ủng của anh ta bẩn như thế
nào. Anh ta cúi nhanh người xuống, cái lưỡi lê cắm trên khẩu súng anh ta
đeo trên vai xé toạc trán và gò má tôi. Giá đứng gần người lính ấy thêm độ
một hai xăngtimét nữa thì hẳn tôi đã bị khoét mất một con mắt rồi!
Tình trạng khó khăn và u ám không chỉ ở mình khẩu đội tôi. Xung quanh
chúng tôi tất cả đều như thế. Trong làng đang bước vào mùa gặt. Cuộc
“thanh trừng” bắt đầu xuất hiện trong thành phố. Bất cứ ai có lý lịch thuộc
thành phần tư sản, chủ cửa hàng, thương nhân đều bị bắt và đưa đi đày. Vậy
mà phần lớn cộng đồng Do Thái lại sống bằng nghề buôn bán.
Đến giữa tháng Giêng năm 1940 chúng tôi nhận lệnh hành quân tới ga xe
lửa gần nhất để lên tàu. Chúng tôi lập thành đội hình hành quân. Những con
đường vào thời điểm ấy phủ đầy tuyết giá. Chúng tôi khởi hành vào sáng
sớm và dự định sẽ tới nhà ga vào ban đêm để bắt đầu lên tàu. Ngày mùa
đông rất ngắn và trời tối rất sớm. Chúng tôi đi ngang vài thị trấn nhỏ, bên
trong hình như đang tổ chức một lễ hội địa phương. Tiếng nhạc vang lên từ
nhiều ngôi nhà cửa sổ sáng đèn. Một người lính của chúng tôi, đang lạnh và
đói, từ trên lưng ngựa nhòm vào một cửa sổ đang mở và la lên : “Yến tiệc
đi, lũ cặn bã, rồi chờ cho tới lúc chúng đến trừng phạt chúng mày.” Có lẽ
đây là những lời tiên tri chính xác đến khủng khiếp.