phối 125 gram bánh mì mỗi ngày. Cha tôi có phiếu khẩu phần của công
nhân.
Chúng tôi phải tìm cách để tồn tại. Một đêm nọ cha tôi nảy ra một ý tuyệt
vời. Từng làm quản lý cung ứng cho nhà máy xử lý bột xương, ông biết rõ
vị trí các rãnh phế thải mà các nhà hàng và căng tin trút xương. Ông quyết
định đi kiểm tra lại những nơi này để tìm xương xẩu còn sót. Chúng tôi
mừng nở nang khi ông lôi lên mấy khúc xương từ dưới lớp đất đông giá.
Mẹ tôi ninh mớ xương trong cái nồi lớn và vớt ra mỡ váng để đổ vào những
hũ nhỏ. Thậm chí vẫn còn chút thịt dính lại trên xương. Cả gia đình tôi gặm
mớ xương trong bữa tối, thật là một bữa đại tiệc! Mỡ từ xương mà mẹ tôi
vớt được đã giúp mấy mẹ con sống sót qua những ngày tháng khủng khiếp
nhất của cuộc phong tỏa.
Mùa đông 1941-1942, thần chết đã quét quang cư dân của thành Leningrad
với tốc độ nhanh chóng mặt. Tôi còn nhớ như in cái ngày mình giúp một
người đàn ông đã hoàn toàn kiệt sức leo qua một đống tuyết giữa phố. Tôi
không thấy rõ mặt ông, do nó bị một chiếc khăn choàng che mất: nhưng tôi
gặp lại ông trên đường quay về trường – ông nằm chết ở góc đường Maklin
và Sadovaya, bên ngoài một tiệm dược phẩm. Chiếc khăn tuột khỏi mặt, lộ
ra một khuôn mặt hốc hác, râu ria lởm chởm. Tôi đi ngang qua chỗ ông
nằm mỗi ngày: không ai còn đủ sức mang cái xác ra khỏi khu phố. Giống
như vậy, các cư dân của Leningrad lần lượt chết vì đói, người này nối tiếp
người khác, hiến đời mình cho thành phố. Tuyết mau chóng phủ lên xác
chết của người đàn ông, biến nó thành một cái đụn nhỏ trắng xóa.
Cha tôi có một chiếc xe kéo loại nhẹ với những vành bánh xe tròn rộng từ
thời trước chiến tranh
. Nó được xích trong sân nhà. Sau khi tôi đi sơ tán
cha tôi đã thu gom chút sức tàn và kiếm sống chút ít nhờ vận chuyển hàng