vở kịch, chết già, trong khi rất nhiều người trong số chúng tôi có nguy cơ
chết yểu, nếu không giữa thành Leningrad bị phong tỏa, thì cũng trong các
trận đánh ngoài mặt trận. Chúng tôi trông thấy người chết trên đường phố
hàng ngày, nguyên những tòa nhà đổ sập thành mảnh vụn dưới bom đạn
quân Đức. Nhưng cuối mỗi màn kịch chúng tôi vỗ tay và giậm chân như
điên: có dịp để làm ấm một chút đôi tay đôi chân cóng lạnh. Tôi nghĩ rằng,
mọi người – cả khán giả lẫn diễn viên, đều đang mong chờ khi buổi kịch
kết thúc, do tất cả chúng tôi đều được mời dự một bữa tối có đồ ăn nóng.
Không gì có thể sánh bằng một bữa ăn nóng đối với những cư dân đói khát,
lạnh cóng và bị loạn dưỡng của Leningrad. Đó là niềm vui sướng sau cùng.
Chúng tôi không nghĩ tới gì khác nữa, chỉ còn là chúng tôi và thức ăn. Mọi
thứ khác đều không còn quan trọng.
Cuối cùng buổi kịch cũng kết thúc. Hoan hô! Từng trung đội một, chúng tôi
đều bước tới sảnh giải lao của nhà hát, nơi những dãy bàn đã sẵn sàng chờ
đợi. Bữa tối gồm ba món: súp nóng, mì sợi với thịt và món thạch trái cây để
tráng miệng. Tất cả chúng tôi đều được phát thêm một thanh sôcôla nhỏ,
hiệu “Cánh buồm Vàng”, để đem về nhà. Không ai dám mơ tới một bữa đại
tiệc như vậy: quả là một buổi thết đãi sang trọng, chúng tôi cảm thấy ấm áp
trong cả cơ thể lẫn tâm hồn.
Sau bữa tối tất cả chúng tôi đi bộ về nhà, thanh sôcôla quý giá cất trong túi
áo ngực. Tất cả đi từng người một theo hàng dọc, bước trên lớp tuyết dày ở
hữu ngạn sông Fontanka. Chúng tôi nghe thấy tiếng đạn pháo xa xa, nhưng
ở đây, giữa thành phố, tất cả đều yên tĩnh. Không có ánh sáng, không có
khách bộ hành. Thành phố như đã chết. Trăng tròn trên trời là nguồn sáng
duy nhất trong đêm đó. Tất cả đám học sinh chúng tôi, những người sống
sót qua chiến tranh và cuộc phong tỏa, đều nhớ rõ đêm Giao thừa 1942 cho
tới lúc nhắm mắt.