Đó là lúc tôi phải rời đống lửa. Tình thế chúng tôi khá tồi tệ, bọn Đức bất
cứ lúc nào cũng có thể tổ chức đột kích vào vị trí chúng tôi: vì thế tôi
không còn lựa chọn nào khác ngoài việc quay về khẩu đội mình.
Khẩu đội trưởng, Trung sĩ Cận vệ Palanevich, đã lập một chỗ trú tốt để qua
đêm, ra lệnh cho tổ pháo đem gỗ khô và cành linh sam tới hầm trú ẩn cạnh
khẩu pháo. Buổi chiều khá ẩm ướt – sương xuống thấp – và chúng tôi
không thể nhìn rõ vị trí kẻ địch.
Tôi bố trí chiến hào của mình cách khẩu pháo khoảng 10 mét, gần một cái
gò nhỏ. Tôi ra lệnh thay thế những cành cây bị ướt bằng những cành khô.
Một người đánh xe đem bữa tối tới cho tôi, đồng thời cũng là bữa trưa.
Món súp kê loãng trong cà mèn vẫn còn nóng. Tôi đặt cà mèn lên mặt gò
và ăn một cách thích thú, mặc dù nó chẳng có mùi vị gì và không có bánh
mì kèm theo, bánh đã đông lại cứng ngắc. Nhưng thức ăn làm tôi ấm lên và
tôi quyết định đào chiến hào của mình rộng ra trước lúc bọn Đức có thể tấn
công.
Vừa gạt lớp tuyết trên đỉnh gò để đào xuống, tôi chạm phải một mảnh áo
khoác Đức. Khi thọc sâu hơn xuống tuyết, tôi nhận ra ngọn gò nhỏ gần
chiến hào của mình thật ra là cái xác đông cứng của một lính Đức. Thật
chẳng vui vẻ gì khi có được hàng xóm như thế! Đặc biệt khó chịu là tôi vừa
dùng thân hắn làm bàn ăn tối. Cũng thế, trong đêm trước tôi đã dùng xác
chết ấy làm vật chắn gió để tựa lưng mình vào. Vậy là tôi cần đào cho mình
một chiến hào khác và ngụy trang cái cũ bằng tuyết. Nhưng giờ đây, tôi lún
mình vào cái chiến hào giá lạnh, ướt át và chật hẹp này. Dần dần, tôi đi vào
giấc ngủ.