sau và chúng tôi tiếp tục chuyến đi. Tôi hầu như đã ngủ gục trên chiếc xe
đầu tiên và cho rằng Vedernikov chỉ muốn tuân theo tiếng gọi tự nhiên:
nhưng tại sao anh ta lại cầm theo chiếc rìu?
Thời tiết thay đổi tệ hơn vào buổi chiều: một cơn gió rú rít đem tới tuyết
nặng hạt và con đường bị phủ đầy những bông tuyết. Khi trời tối, chúng tôi
lạc đường hoàn toàn và di chuyển xuyên qua một cánh đồng, hy vọng vào
vận may. Bất thần, chúng tôi đâm đầu vào một căn nhà kho. Nhà không còn
tường và mái của nó gục xuống gần sát đất. Thật may mắn là mái lại làm
bằng rơm. Tôi nhảy khỏi xe và kiểm tra chỗ rơm ấy. Rơm hơi cũ, tất nhiên,
nhưng vẫn có thể chấp nhận được với lũ ngựa. Tôi ném một ít xuống chân
lũ ngựa và chúng nuốt chửng lập tức: chúng tôi không phải tìm đâu xa nữa.
Mặc cho bão tuyết, chỉ mất có vài phút để dỡ rơm khỏi mái và chất lên xe
ngựa. Chúng tôi chất đầy hai xe, và tôi rất mừng là như thế đã gần đủ một
nửa định mức mà pháo đội trưởng giao cho tôi. Tôi ra lệnh cho mấy người
đánh xe đưa những chiếc xe chở nặng trĩu quay về trung đoàn ngay lập tức.
Trong khi đó, nhóm còn lại đem rơm cho ngựa ăn, đi tìm con đường và tiếp
tục tìm kiếm vận may.
Cơn gió thậm chí nổi lên mạnh hơn trước - chúng tôi phải tìm chỗ trú ngay.
Sau khi đi lang thang trong bóng tối khoảng một tiếng đồng hồ, chúng tôi
nghe thấy tiếng chó sủa xa xa. Chúng tôi quay về hướng đó và chẳng mấy
chốc đã đến một ngôi nhà đứng lẻ loi. Hóa ra đó là ngôi nhà duy nhất còn
lại của nơi từng là cả một khu làng. Qua cửa sổ thấy có ánh đèn. Chúng tôi
buộc ngựa vào hàng rào và đến gõ cửa. Một phụ nữ ra mở. Bà ta trông lớn
tuổi nhưng giọng lại khá trẻ, bà mời chúng tôi vào nhà. Bên trong thật ấm
áp. Một luồng ánh sáng dịu tỏa ra từ chiếc đèn dầu cũ kỹ đặt trên bàn. Ánh
sáng leo lét của nó chỉ đủ chiếu sáng trên cái bàn: phần còn lại của căn
phòng vẫn nằm trong bóng tối. Chúng tôi đã lạnh tới xương và rất mừng
khi thoát khỏi cơn bão tuyết dữ dội.