phiên yểm hộ nhau, chúng tôi đã tới được điểm hẹn và chẳng mấy chốc mọi
người đã lên ngựa, súng máy sẵn sàng trên xe, và kỵ đội lập thành một đội
hình trên đường.
Ở ban chỉ huy trung đoàn không ai trông chờ gặp lại chúng tôi: họ cho là
giờ này chúng tôi đã chết cả rồi. Mọi người nhìn chúng tôi như thể vừa về
từ “cõi bên kia”. Chúng tôi tham gia trận đánh đột phá vây khi vừa hành
quân tới nơi: nhưng đó là một trận đánh quen thuộc, với bao đồng đội xung
quanh. Bây giờ chúng tôi không còn đơn độc, chúng tôi chiến đấu như một
thành phần của trung đoàn. Chiến đấu cùng nhau thì có chết cũng thấy đời
đẹp.
Ngày 21 tháng Bảy trận chiến đã tới đỉnh điểm. Quân đoàn tôi đã hoàn toàn
bị bọn Đức bao vây. Những người bị thương phải sơ tán trên máy bay U-2
“máy bay ngô”. Các kỵ sĩ vừa hộ tống người bị thương tới sân bay tạm trên
đường trở về đã bị phục kích và tàn sát. Trong khi đó, chúng tôi đã gần cạn
đạn dược. Một kỵ đội của trung đoàn tôi tới được một ngôi làng đang bị
bọn Đức chiếm giữ. Bọn này cho rằng ý chí chiến đấu của chúng tôi đã bị
bẻ gãy nên tổ chức cuộc tấn công vào kỵ đội, có một xe tăng đi kèm. Khi
bọn Fritz chỉ còn cách kỵ đội khoảng 30 m, bí thư đảng bộ trung đoàn,
Thiếu tá Cận vệ Ostrovski hét lớn: “Vì Tổ quốc!” và dẫn mọi người xông
vào giáp lá cà. Kỵ đội vùng dậy và xông thẳng vào bọn Đức với tiếng hô
lớn “Hurrah!”. Chiếc tăng Đức bị hạ gục bởi lựu đạn. Ostrovski bắn hạ ba
tên Đức ở tầm gần. Ngôi làng được chiếm trở lại.
Sau hai ngày chiến đấu quyết liệt, các kỵ sĩ của quân đoàn đã chọc thủng
vòng vây. Ngày 23 tháng Bảy quân đoàn nối lại được liên lạc với các đơn
vị bộ binh: một lần nữa, chúng tôi đã giành lấy thế chủ động từ tay kẻ địch.
Sau đó sư đoàn tôi tiến về phía nam, đuổi theo bọn Đức tháo chạy trong