nơi quản lý họ. Hoá ra đó là những sĩ quan Ba Lan vừa trốn khỏi trại tù
binh.
Vùng biên giới không lúc nào yên tĩnh. Trong đêm, có ai đó phía bờ
chúng tôi dùng đèn chiếu vẽ những đường khó hiểu lên những đám mây
xám thấp. Bờ bên kia đáp lại họ cũng bằng cách thức tương tự. Vậy mà
chúng tôi không bắt được ai. Các sĩ quan Đức qua bên chúng tôi, mục đích
để tìm kiếm và chôn cất những người của mình, nhưng thật ra là dọ thám vị
trí đóng quân và lực lượng chúng tôi. Nhưng chúng tôi cũng tìm ra cách để
việc ấy không thực hiện được.
Sau đó sư đoàn chúng tôi được rút về sâu trong hậu phương. Trung
đoàn tôi đóng quân tại một thị trấn nhỏ bé bẩn thỉu ở Starưi Sambor. Ở đây
gần như toàn là người Do Thái, họ làm nghề thủ công và buôn bán, cung
cấp cho các làng Ukraina. Nhưng không có đủ phòng cho khẩu đội tôi
cùng với pháo, xe chở đạn dược và ngựa, thậm chí ở ngay chính Starưi
Sambor. Chúng tôi đóng tại làng Blazhow, cách Starưi Sambor 7 tới 8 km.
Để định chỗ đóng quân, chỉ huy trưởng ra lệnh cho tôi vào làng và vẽ lại sơ
đồ vị trí của nó. Một thượng sĩ đi cùng tôi với mục đích tìm nguồn tiếp tế.
Hai chúng tôi cùng đi ngựa.
Cái làng hóa ra trải rất dài. Nó có một nhà thờ thuộc giáo hội Uniate
và một lãnh địa nhỏ. Người chủ của nó, một người Ba Lan, đã chạy sang
phía Đức. Tôi vẽ sơ đồ của nó và, khi trở về khẩu đội, vẽ lại sạch sẽ bằng
chì màu, ghi chú tất cả, thậm chí họa lại một vài ngôi nhà chính. Các chỉ
huy cấp trên rất hài lòng, tuy họ không biểu lộ trên nét mặt. Họ không
muốn làm hư cấp dưới: điều đó có thể làm cho cấp dưới trở nên kiêu ngạo.
Nhưng tay thượng sĩ (mà tôi đã kể ở trên), khi ngồi bên đống lửa vào ban
đêm, quanh đại đội của mình, ngạc nhiên kể với mọi người rằng trung uý