cho Eurydice thoát chết với điều kiện duy nhất là Orpheus không được nhìn
lại nàng trong suốt hành trình trở lên dương thế. Rồi tới khoảnh khắc bất
hạnh ấy, vì quá lo sợ cho người vợ trẻ khi nàng trượt chân ở hành lang,
Orpheus đã quên mất và quay lại.
Ted đi về phía công trình tượng đó. Hắn cảm thấy như thể hắn vừa bước
vào trong lòng nó, rồi nó bao quanh hắn, khiến hắn bồi hồi. Trước giờ khắc
Eurydice phải xuống âm ti lần thứ hai, nàng và Orpheus chào vĩnh biệt. Điều
làm hắn cảm động, như mài nát một tấm thủy tinh mỏng tang vào lồng ngực,
là sự tương tác trong im lặng của họ, sự vắng mặt của kịch thoại và nước
mắt khi họ đắm đuối nhìn nhau, chạm vào nhau rất khẽ. Hắn cảm nhận được
giữa họ là một sự thấu hiểu quá sâu sắc đến độ chẳng cần ngôn ngữ: một
nhận thức không lời rằng tất cả đã hết rồi.
Ted nhìn chằm chằm công trình tượng, chết lặng, suốt ba mươi phút. Rồi
hắn trở bước, quay người. Hắn rời khỏi gian phòng đó và trở ra. Chốc chốc,
cảm nhận ấy lại chờ sẵn hắn: một nỗi phấn khích rối beng mà đã suốt bao
nhiêu năm hắn không cảm thấy khi đứng trước một tác phẩm nghệ thuật, đi
kèm với một sự phấn khích còn nao nức hơn nữa là nỗi phấn khích kia vẫn
còn có thể xuất hiện.
Từ đó tới chiều, hắn lang thang trên gác giữa các bức khảm Pompeii,
nhưng tâm trí hắn không hề rời công trình tượng Orpheus và Eurydice. Hắn
thăm lại nó một lần nữa trước khi rời bảo tàng.
Lúc này trời đã chiều, Ted bắt đầu rảo bước, vẫn mụ mị, cho tới khi hắn
thấy mình giữa một mê lộ những con hẻm quá nhỏ hẹp nên mang cảm giác
tối tăm. Hắn đi qua những nhà thờ để lộ ra những công trình tàn tạ nhem
nhuốc, từ trong lồng nhà bẩn thỉu của chúng vọng ra tiếng mèo gào và tiếng
trẻ con ỉ ôi. Những huy hiệu bết đất, bị quên lãng, đã được tạc trước khoảng
cổng khổng lồ của chúng từ xưa, và những thứ này khiến Ted bồn chồn:
Những biểu tượng quan trọng, phổ biến này đã trở nên vô nghĩa chẳng bởi
điều gì khác ngoài thời gian. Hắn hình dung Susan phiên bản hơi khác kia
bên cạnh mình, chia sẻ nỗi kinh ngạc này.