chứng kiến ba thế hệ xăm mình ủy mị suy sụp như những miếng nệm tả tơi
qua những bắp vế tồi tàn và những bộ mông chảy xệ?
Cara-Ann đang ngủ trên địu, khuôn mặt con bé nép giữa cằm và xương
đòn của Alex, hơi thở thơm mùi bánh quy và trái cây của nó đưa lên mũi
anh. Anh có ba mươi phút, cũng có thể là bốn mươi lăm, trước khi nó thức
giấc và đòi ăn trưa. Nhưng Alex cứ có cảm giác khăng khăng muốn đi
ngược thời gian, muốn hiểu Lulu, muốn chỉ ra chính xác tại sao cô khiến anh
bối rối.
“Làm sao cô quen được Bennie?” - Anh hỏi.
“Vợ cũ của ông ấy từng làm việc cho mẹ tôi” - Lulu nói - “nhiều năm
trước, khi tôi còn là cô bé con. Tôi biết Bennie từ xưa tới giờ, cả con trai ông
ấy nữa, Chris. Anh ấy hơn tôi hai tuổi.”
“À” - Alex nói. - “Thế mẹ cô làm gì?”
“Mẹ tôi từng là đại diện truyền thông, nhưng bà đã từ bỏ công việc đó” -
Lulu đáp. - “Bà sống ở phía bắc bang New York.”
“Tên bà ấy là gì?”
“Dolly.”
Alex định tiếp tục dòng chất vấn này cho tới khi trở lại được thời điểm
Lulu thụ thai, nhưng anh ngừng lại. Khoảng im lặng rơi xuống, kết thúc
bằng sự xuất hiện của thức ăn. Alex đã định gọi súp, nhưng như vậy nghe ẻo
lả quá, thế nên vào phút chót, anh đã chọn Reuben sandwich, quên mất rằng
nếu nhai thì thể gì anh cũng đánh thức Cara-Ann. Lulu gọi bánh trứng
đường chanh; cô dùng nĩa khẩy từng mẩu trứng đường để ăn.
“Thế” - cô cất tiếng, khi Alex không biết phải nói gì. - “Bennie nói chúng
ta sẽ tạo ra một đội ngẫu nhiên, trong đó anh là đội trưởng ẩn danh.”
“Ông ấy dùng những thuật ngữ đó à?”
Lulu cười to. “Không, đó là những thuật ngữ marketing. Từ trường học.”