đi khi tới gần ngôi nhà, cũng có thể là do Bennie ứa nước mắt. Anh cảm
thấy đau đớn khi nhìn con trai đi suốt quãng đường dài tới cửa chính. Anh lo
Sasha sẽ nói gì đó - những câu như Thằng bé giỏi quá hay Thú vị thật - một
điều gì đó sẽ khiến Bennie phải quay sang nhìn nó. Nhưng Sasha đủ hiểu
biết; cô hiểu mọi điều. Cô ngồi im lặng bên Bennie nhìn Chris bước lên
những cây cỏ tốt tươi sáng bừng, đi tới mở cửa trước rồi bước vào mà không
ngoái lại.
Họ không nói gì cho tới lúc rời khỏi Henry Hudson Parkway vào West
Side Highway, hướng về Lower Manhattan. Bennie mở mấy bài thời đầu của
Who, Stooges, những ban nhạc mà anh đã nghe từ khi anh còn chưa đủ tuổi
đi nghe nhạc. Rồi anh bật ban Flipper, Mutants, Eye Protection - những
nhóm nhạc vùng Bay Area thập niên bảy mươi mà anh và đám bạn đã nhảy
slam-dance cổ vũ ở club Mabuhay Gardens những khi bọn anh không luyện
tập với ban nhạc hát chán òm của họ, Flaming Dildos. Anh cảm thấy Sasha
chăm chú lắng nghe và anh lật trở trong đầu ý nghĩ tiết lộ với cô về sự vỡ
mộng của anh - lòng căm ghét đối với ngành công nghiệp mà anh đã cống
hiến cả cuộc đời. Anh bắt đầu đánh giá từng lựa chọn âm nhạc, đưa ra lý
luận qua bản thân các bài hát, chất thơ tơi tả của Patti Smith (nhưng tại sao
cô ấy thôi hát nhỉ?), dòng nhạc jock hardcore của Black Flag và Circle Jerks
cứ thay đổi, sự suy đồi khủng khiếp ấy, xuống, xuống, xuống mãi cho tới
những đĩa đơn mà giờ đây ngày ngày anh thỉnh cầu các nhà đài cho phát,
những thứ đội lốt âm nhạc, vô hồn vô cảm như những bảng hiệu neon trong
ánh chiều tà xanh ngắt.
“Thật kỳ quái” - Sasha nói - “sao ở đó lại trống rỗng thế.”
Ngạc nhiên, Bennie quay qua cô. Có lẽ nào cô đã theo dấu được những
tuyên ngôn âm nhạc trong đầu anh để rồi đưa ra kết luận khắc nghiệt ấy?
Sasha đang nhìn xuống phố, và anh dõi theo mắt cô tới khu vực trống hoang
từng là chỗ của Tòa tháp Đôi trước kia. “Nên có cái gì đó, anh thấy không?”
- Cô nói, không nhìn Bennie. - “Như một sự lặp lại. Hoặc một mô hình.”
Bennie thở dài, nói: “Họ sẽ xây dựng lên thôi. Khi họ đã đập phá xong.”