chế dễ bề điều khiển. Tiết chế tránh cái nhuệ khí ban đầu của giặc, rút được
toàn quân về chờ thời cơ phản công, đấy là kế lớn mưu sâu vậy. Cho nên
sớm muộn, chú cháu ta cũng phải về Vạn Kiếp. Anh em Thế Lộc là người
trung nghĩa, chú sẽ dâng sớ xin triều đình thưởng công cho họ để họ nức
lòng đánh giặc. Tình của cháu với anh em Thế Lộc thật là sâu nặng. Nhưng
phải gác tình riêng mà lo đại cục. Cháu nghĩ thế nào?
Chiêu Thành Vương hỏi mấy lần, Hoài Văn vẫn ngồi im lặng không nói.
Cuối cùng, Hoài Văn đi tìm anh em Thế Lộc.
* * *
Nói sao cho hết nỗi buồn của Hoài Văn khi phải từ biệt những tráng sĩ
Ma Lục. Chiêu Thành Vương đã dẫn quân bản bộ ra khỏi cánh đồng cỏ, mà
Hoài Văn và sáu trăm gã hào kiệt vẫn còn dùng dằng ở trên núi.
Mới buổi chiều nào họ đi qua đây, nỏ ở trên núi bắn xuống như mưa. Rồi
những ngày kề vai sát cánh, chia sẻ ngọt bùi, cùng nhau làm bẫy đá, cùng
nhau đốn gỗ, đốn tre dựng ông thần tướng khổng lồ. Rồi những ngày tưng
bừng chiến thắng làm cho quân giặc bạt vía kinh hồn. Họ nhìn lên cái động
âm u mà sao thân thiết. Họ nhìn lên những tảng đá lớn lăn từ trên núi
xuống, ngổn ngang khắp cánh đồng còn bết máu giặc. Họ nhìn cây đa cổ
đại, trên ngọn vẫn còn trơ trơ cái lỗ tên thần. Những ngày vui ấy quên làm
sao được.
Họ cầm tay những người tráng sĩ áo chàm, kẻ nhận nắm ngô, kẻ vài củ
sắn, kẻ ống mật ong, kẻ gói thuốc rịt. Gã hào kiệt tặng lại kiếm, người tráng
sĩ biếu lại dao, bên này cho cung, bên kia cho nỏ.
Hoài Văn tay cầm cương ngựa, đi bộ bên Thế Lộc và Nguyễn Lĩnh. Hoài
Văn không dám nhìn mặt hai anh em người Mán, bởi vì những bộ mặt gân
guốc, trơ trơ như đá ấy, tưởng lúc nào cũng lì lợm, thì lúc này đầm đìa nước