nước Nam. Chỉ có việc đánh, làm gì phải kéo ra tận đây mà bàn đi bàn lại?
Chao ôi! Lúc này mà Hoài Văn được xuống thuyền rồng và được bàn việc
nước! Chàng sẽ quỳ trước mặt quan gia, và xin quan gia cho đánh!
Thuyền rồng im lặng. Tàn tán, cờ quạt và các đồ nghi trượng in màu
vàng son trên mặt nước sông trong vắt. Chốc chốc lại thấy những người nội
thị quỳ ngoài mui, dâng trầu cau, dâng thuốc. Hoài Văn muốn xô mấy
người lính Thánh Dực để chạy xuống bến nhưng lại sợ tội chém đầu.
Chàng muốn thét to: “Xin quan gia cho đánh”, nhưng lại e phạm thượng!
Mấy tháng ở kinh, thấy sứ Nguyên hạch sách đủ điều, Hoài Văn chỉ có một
ý nghĩ là đánh, đánh để giữ lấy quốc thể. Rồi lại đến cái ngày quan gia mời
các bô lão khắp bàn dân thiên hạ về kinh để nhà vua hỏi ý dân xem nên cho
giặc mượn đường hay nên đánh lại. Các bô lão là những người quê mùa
chất phác, chưa bao giờ được bước chân vào nơi lầu son, gác tía, chưa bao
giờ được bàn việc nước, thế mà nghe quan gia hỏi, họ đều nắm tay, gân
mặt, khẳng khái tâu lên: “Xin đánh”, trăm miệng một lời, rung chuyển cả
toà điện Diên Hồng. Những người áo vải ấy còn biết đường phải trái, huống
chi ta là bậc tôn thất há lại không nghĩ được như họ hay sao? Đến họ mà
quan gia còn hỏi kế, sao ta là người gần gụi, quan gia chẳng hỏi một lời?
Suốt ngày hôm qua, Hoài Văn ruổi ngựa đi tìm vua, quên không ăn uống.
Hôm nay, đợi mãi từ sớm đến trưa, Hoài Văn thấy đói cồn cào, mắt hoa lên,
đầu choáng váng, chân tay buồn bã. Hoài Văn không chịu được nữa. Đứng
mãi đây cho đến bao giờ? Thôi thì liều một chết vậy. Ta cứ xuống, chỉ nói
hai tiếng xin đánh, rồi mặc cho triều đình luận tội. Hoài Văn xô mấy người
lính Thánh Dực ngã chúi, xăm xăm xuống bến. Một viên tướng hốt hoảng
chạy tới, níu áo Hoài Văn lại. Quốc Toản tuốt gươm, mắt trừng lên một
cách điên dại:
– Không buông ra, ta chém!