Tôi không ở tù chung với nó nên không biết trong tù nó có “ngon
lành” không (muốn biết cứ giở những tờ khẩu cung còn lưu trong Tổng
Nha thì rõ!) nhưng ngoài đời nó thường ăn nói đốp chát, đanh đá. Chồng
của Ma Vú Dài thì tôi biết vì tôi ở tù chung với anh ta. Anh ta thuộc loại
“ngon lành.” Nhưng đó là chuyện trong tù, còn chuyện “kinh tế thị trường”
thì lại khác. Chẳng biết hai vợ chồng đớp hít vơ vét cỡ nào mà phải bỏ
nhiệm sở trốn. Chạy đi cầu cứu hết ông lãnh đạo nọ đến ông kia. Một bữa,
Ma Vú Dài tình cờ gặp tôi. Nó nói:
-Mình có cái đồn điền cà phê mấy chục mẫu. Ông mua mình bán cho.
Tôi chỉ ngón tay vào giữa hai đùi của mình và nói:
-Làm nhà văn, chỉ có mỗi cây bút bi này, tiền đâu mà mua?
Không biết sau đó nó bán đồn điền cho ai. Nhưng đồn điền cà phê có
là cái quái gì với nó. Nó làm sếp tàu biển. Mỗi lần tàu há mồm là nuốt cả xe
hơi, biệt thự. Dù nó có bỏ nhiệm sở mà trốn thì cũng đã gởi cả núi tiền ở
các ngân hàng Thụy Sĩ rồi!
Thứ hai là một con ruồi đực. Nó cũng từng vô rừng “kháng chiến” đâu
bốn năm năm gì đó. Thường mang một cây M16 rỉ sét vì nó không biết
tháo ráp để chùi súng. Và dĩ nhiên là chưa hề bắn viên đạn nào.
Năm 1974 tôi gặp nó trong chiến khu Long Khánh. Nó nói:
-Ông sắp về thành phải không? Cho tôi gởi cái thư về nhà.
Nhà của nó ở tận ngoài Đà Nẵng, cách Sài Gòn một ngàn cây số. Vì
bạn, tôi đi Đà Nẵng (thư mật, không thể gởi qua bưu điện). Tôi không quen
đường sá ở đó nên nhờ Hổ chở xe máy. Qua đường ray xe lửa, xe của Hổ bị
sụp lỗ, đẩy nguyên bàn chân phải của tôi vô bánh xe. Máu túa ra đầm đìa.
Đưa được một cái thư, lãnh một cái sẹo. Nhưng vì đồng chí mình, một cái
sẹo nào có sá gì!