Tôi lướt nhanh qua cô lễ tân đang tươi cười, leo hết chiếc cầu thang
gỗ khổng lồ lên tầng hai và buông mình xuống giường.
Chuyến bay từ New York đến Rangoon mất hơn bảy mươi hai tiếng
đồng hồ. Sau đó, tôi phải chịu đựng nguyên một đêm và nửa ngày trời
trên chiếc xe tồi tàn nhồi nhét đầy hành khách bốc mùi. Họ đều mặc
mấy chiếc váy màu cháo lòng, áo thun cũ và đi xăng đan nhựa mòn
vẹt. Chưa kể gà rồi lợn. Một chuyến đi hai chục tiếng trên con đường
chẳng ra đường. Đó là lòng sông cạn khô thì đúng hơn. Tôi cắn răng
chịu đựng tất cả để đi từ New York phồn hoa đến ngôi làng nhỏ bé hẻo
lánh này.
Hẳn tôi đã thiếp đi. Mặt trời khuất bóng, màn đêm buông xuống.
Căn phòng nhập nhoạng. Va li của tôi vẫn đóng kín, vứt trên chiếc
giường còn lại. Tôi nhìn quanh, mắt đảo tới đảo lui như thể phải định
thần để ý thức được nơi mình đang ở. Cây quạt trần cũ bằng gỗ lơ
lửng phía trên đầu. Căn phòng rộng thênh thang, đồ đạc tối giản, tạo
cảm giác như trong tu viện. Cạnh cửa ra vào dựng một cái tủ trơn, gần
cửa sổ có bộ bàn ghế, giữa hai chiếc giường là cây đèn ngủ nhỏ.
Tường quét vôi trắng không treo tranh ảnh lẫn gương. Ván gỗ lát cũ
mèm đã nhẵn thín. Vật dụng sang trọng nhất là chiếc tủ lạnh mini Hàn
Quốc nhưng nó không chạy. Khí trời mát mẻ ùa vào qua khung cửa sổ
để ngỏ.
Trong ánh chạng vạng, cuộc gặp gỡ giữa tôi và người đàn ông luống
tuổi vài tiếng trước trở nên kì dị và bí hiểm hơn so với ban ngày. Kí ức
ấy rất mơ hồ, nửa mơ nửa thực. Những hình ảnh mờ ảo lướt qua tâm
trí, tôi không giải thích nổi, chúng thật vô nghĩa. Tôi lục lọi trí nhớ.
Ông ta mặc chiếc áo thun trắng đã ố vàng theo năm tháng, váy longyi
xanh lá và đôi dép cao su xỏ ngón. Tóc mọc dày, bạc trắng, cắt ngắn
ngủn. Khuôn mặt đầy nếp nhăn. Tôi không đoán được tuổi của ông ta.
Sáu mươi, bảy mươi cũng nên. Một nụ cười bí hiểm trên môi. Ông ta