Ông ta gặp ông lần cuối khi nào? Liệu ông ta có biết ông còn sống hay
đã mất, nếu còn sống thì giờ đang ở nơi đâu không?
Người phục vụ không nhận tiền.
“Quán chúng tôi chào đón bạn của U Ba,” ông cúi đầu nói.
Tôi vẫn rút một tờ kyat
từ túi quần ra. Tờ tiền cũ mèm và bẩn thỉu.
Tôi đặt nó dưới đĩa. Người phục vụ dọn bàn nhưng không động đến tờ
tiền. Tôi chỉ vào nó. Ông mỉm cười.
Tiền ít quá ư? Hay dơ quá? Tôi để một tờ mệnh giá lớn hơn và sạch
sẽ hơn lên bàn. Ông lại cúi đầu và mỉm cười, để mặc tờ tiền ở đó.
Bên ngoài còn oi bức hơn. Cái nóng khiến tôi tê liệt. Tôi đứng trước
quán trà, chân không nhấc nổi. Mặt trời thiêu đốt da thịt, những tia
nắng chói chang chiếu thẳng vào mắt. Tôi đội mũ lưỡi trai lên và kéo
sụp xuống.
Đường phố đông nghịt nhưng yên tĩnh lạ lùng. Hiếm lắm mới thấy
ô tô hay xe máy. Mọi người đa phần đi bộ hoặc đạp xe. Có ba chiếc xe
ngựa và một cỗ xe bò đỗ ở ngã tư. Số ô tô ít ỏi trên đường đều là xe
bán tải cũ của Nhật, móp méo và gỉ sét, chật như nêm với những thanh
niên đang ôm cứng ngắc túi xách hay giỏ mây.
Hai bên đường là dãy hàng quán dựng bằng ván, mái lợp tôn thấp lè
tè, nơi người ta bán đủ mọi thứ, từ gạo, lạc, bột mì, dầu gội đầu đến
Coca-Cola và bia. Không có một trật tự nào cả, hoặc có mà tôi không
nhìn ra.
Cách hai hàng lại có một quán trà, khách ngồi trên những chiếc ghế
đẩu gỗ con con. Họ chít khăn đỏ và xanh quanh đầu, không mặc quần
mà quấn váy longyi
.
Trước mặt tôi là vài người phụ nữ với đôi má, hàng lông mày và
mũi đều bôi thứ gì đó màu vàng, họ đang phì phèo những điếu thuốc
dài ngoằng xanh thẫm. Tất cả đều gầy gò nhưng không hề khắc khổ,