cánh cửa gỗ cũ kĩ nặng nề đóng sập lại, rồi xoay người, co gối, kéo
chăn lên tận cằm ngủ tiếp.
Khi tôi mở mắt, trời đã sáng trưng. Trước mặt, làn khói nhè nhẹ bốc
lên từ cốc nước nóng. Bên cạnh để gói Nescafé, một viên đường, sữa
đặc cùng bánh mới ra lò. Nắng rót qua hai khung cửa sổ, từ ghế, tôi
thấy một khoảng trời. Màu xanh đậm hơn và gắt gao hơn bầu trời New
York quen thuộc. Hương ban mai tinh khôi, khiến tôi bất giác nhớ về
những ngày hè cuối tuần ở Hamptons, khi tôi còn là một cô bé, sáng
sớm, tuy đã tỉnh ngủ song tôi sẽ nằm ườn trên giường nghe tiếng biển
rì rào qua khung cửa sổ để ngỏ, hít hà bầu không khí se se trong
phòng, thứ không khí dù hơi lạnh nhưng vẫn báo hiệu ngày nắng
nóng.
Tôi ngồi dậy rồi vươn vai. Lạ một điều là tôi không hề đau lưng,
dẫu thông thường, nếu nằm giường lạ thể nào tôi cũng đau. Đêm qua
tôi đã ngủ ngon lành trên chiếc đi văng cũ với lớp bọc sờn rách. Tôi
bước đến cửa sổ. Hàng rào hoa giấy rất lớn mọc quanh nhà. Mảnh sân
quét tước sạch sẽ. Củi xếp gọn giữa hai cái cây, ít đóm nhóm lửa đặt
bên cạnh. Một con chó không rõ giống gì chạy lung tung, heo lăn lóc
bên dưới.
Tôi vào bếp. Lửa âm ỉ cháy trong góc, bên trên bắc ấm nước. Khói
bốc thẳng rồi biến mất qua lỗ thông trên mái nhà. Vậy mà mắt tôi vẫn
cay sè. Kê sát tường là cái chạn để mở, trong có mấy chiếc bát thiếc,
đĩa, ly cùng mấy cái nồi bám đầy bồ hóng. Ngăn thấp nhất xếp trứng,
cà chua, bó hành to đùng, gừng và chanh.
“Julia?” Giọng U Ba vang lên từ căn phòng bên cạnh.
Ông ngồi ở bàn, xung quanh toàn là sách. Cả căn phòng ngập tràn
sách. Trông chẳng khác nào thư viện cũ kĩ. Sách nhét kín các ngăn kệ
từ sàn nhà đến trần. Sách đặt thành đống trên phản gỗ hoặc trên ghế
bành. Chiếc bàn còn lại cũng xếp đầy sách. Nhiều cuốn mỏng cỡ đầu
ngón tay, nhiều cuốn dày như từ điển. Bìa mềm cũng có nhưng hầu hết