U Ba kéo kéo dái tai, nhìn xung quanh tìm kiếm, ông lôi vài cuốn
sách từ ngăn bên dưới lên rồi lấy chiếc chìa khóa trong hộp sơn mài đỏ
trên bàn và mở ngăn kéo. “Đúng như tôi nghĩ, tôi đã khóa nó lại,” ông
nói, đoạn nhấc một quyển sách ra. “Sách viết bằng chữ Braille. Bà Su
Kyi để lại cho tôi trước khi qua đời. Đây là tập một của bộ sách Tin
Win yêu thích. Bà quên xếp nó vào hành lý ngày Tin Win đi
Rangoon.”
Cuốn sách nặng và kì lạ. Gáy đã nát.
“Ai lại để cô đứng thế này. Theo tôi nào. Ta uống cà phê, còn cô cứ
thong thả mà xem sách.”
Chúng tôi qua phòng khách, U Ba rót nước nóng từ phích và pha cà
phê cho tôi. Tôi đặt sách lên đùi rồi mở ra xem. Các trang giấy toàn lỗ
là lỗ, y như những quyển khác. Tôi lướt ngón trỏ trên mặt giấy, một
cách bâng quơ, như kiểu kiểm tra cái kệ bám bụi xem cô giúp việc đã
lau sạch chưa. Tôi bối rối đóng sập lại, đặt lên bàn. Tiếng hát từ xa
vẳng lại. Nhiều giọng hòa vào nhau, nhạt nhòa, mỏng manh đến mức
tưởng như sẽ tan biến đi trước khi chạm đến tai. Một cơn sóng chìm
vào cát trước khi đánh tới chân tôi.
Tôi căng tai lắng nghe nhưng chẳng thấy được gì. Tôi bèn nín thở
và ngồi im đến khi bài hát vang lên, lần này to hơn, đủ để tôi không
mất dấu chúng nữa. Chỉ có thể là tiếng đọc kinh của các chú tiểu, lặp
đi lặp lại, không biết mệt mỏi.
“Là các chú tiểu ở tịnh xá phải không?” Tôi hỏi.
“Không phải các chú ở tịnh xá trong thị trấn đâu. Trên núi còn một
tịnh xá nữa, nếu gió thuận chiều, những sớm tinh sương, bài ca của
các chú tiểu sẽ vang vọng đến tận đây. Cô đang nghe âm thanh Tin
Win và Mi Mi nghe ngày xưa. Năm mươi năm nhưng vẫn như cũ.”
Nhắm mắt lại, người tôi run lên. Giọng của đám trẻ như đi qua tai,
truyền đến cơ thể, chạm vào tôi, nơi không từ ngữ, không suy tư,
không kẻ nào từng làm được.