trong những người kếch sù nhất nước, tất nhiên không kể mấy người
Anh và vài người châu Âu sống tách biệt chẳng dính dáng gì đến phần
còn lại của Myanmar nên so sánh sẽ thành ra khập khiễng. Cơ ngơi
ông sở hữu trên đường Halpin ngang ngửa những biệt thự lộng lẫy bậc
nhất. Ngôi nhà với hơn hai chục phòng, bể bơi và sân chơi tennis
không phải ở góc đường nào cũng có, ngay cả khu tập trung người da
trắng cũng còn hiếm. Do bản thân không chơi tennis nên ông bắt lũ tôi
tớ võ vẽ mà chơi. Sáng nào cũng vậy, khi bình minh vừa ló, hai trong
năm tay thợ làm vườn sẽ đánh bóng qua lại trong một tiếng đồng hồ
nhằm tạo ấn tượng vị chủ nhân dùng sân tennis thường xuyên. Bởi thế
nên hàng xóm và khách đến nhà đều cho rằng ông là một người năng
tập thể thao. Ngoài thợ làm vườn, U Saw thuê thêm hai đầu bếp, hai
lái xe, vài bà lao công, ba bảo vệ gác đêm, một cậu tớ trai, một quản
gia, một người quản lý tiền bạc và chuyện mua sắm.
Nhiều năm trước, thiên hạ đoán già đoán non về nguồn gốc sự giàu
có của ông, nhưng tin đồn dần lắng xuống khi tài sản ông sở hữu càng
ngày càng tăng. Địa vị xã hội nếu vượt ngưỡng nhất định sẽ cách ly
người ta khỏi miệng lưỡi thế gian.
Về phần tiểu sử, ai trong thủ đô cũng biết thời thanh niên, vào
những năm đầu thế kỉ, ông đã quen biết nhiều người Đức ở Rangoon.
Ông nói trôi chảy ngôn ngữ ấy và sớm leo lên chức giám đốc một nhà
máy xay gạo lớn của Đức. Thế chiến thứ nhất buộc tay chủ nhà máy
và hầu hết đám người Đức phải rời bỏ thuộc địa Anh. Ông ta bèn
chuyển nhượng việc kinh doanh cho U Saw, tất nhiên kèm điều kiện
quyền sở hữu phải về lại tay ông này khi ông trở về sau cuộc chiến.
Nghe đâu hai tay đại gia buôn gạo cũng góp mặt, họ bán xí nghiệp cho
U Saw với cái giá vài rupee mang tính tượng trưng. Về sau, chẳng ai
gặp những người này ở Rangoon nữa. Còn U Saw không hé nửa lời về
bước ngoặt trời ban ấy.
Thập niên 1920, những dự án đầu tư của U Saw không ngừng mở
rộng, đầu thập niên 1930, ông đã có những quyết định khôn ngoan để