Tôi lên đường vào sáng hôm sau. Chiếc limo đến sân bay đang đợi
ngoài chung cư. Trời trong và lạnh. Hơi thở của tài xế taxi hóa khói
trắng trong bầu không khí buốt giá khi ông đi đi lại lại trước xe. Bảo
vệ xách túi của tôi ra ô tô và chất vào cốp. Tôi thấy không được khỏe.
Tôi sợ hãi, lo âu và buồn bã. Chưa bao giờ tôi nhận ra mẹ mình bất
hạnh đến vậy trong cuộc hôn nhân này. Tôi nhớ lại một câu nói hôm
trước của mẹ, “Cha con đã rời bỏ mẹ từ rất lâu rồi trước khi biến mất.”
Còn mình thì sao, tôi tự hỏi. Cha đã rời bỏ tôi bao lâu?
Dù cả người bải hoải vì mệt mỏi và kiệt sức, tôi vẫn chẳng tài nào
chợp được mắt, mãi sau mới thiếp đi trong giấc ngủ chập chờn. Những
nghi vấn không buông tha tôi. Nhiều lần trong đêm, tôi giật mình tỉnh
giấc, ngồi bật dậy, nhìn chiếc đồng hồ du lịch nhỏ để bên cạnh. 2 giờ
30 phút. 3 giờ 10 phút. 3 giờ 40 phút.
Sáng ra tôi cũng chẳng thấy khá hơn. Đầu tôi ong lên, tim đập thình
thịch như có ai đang đè lên ngực. Tôi biết cảm giác ấy khi ở New
York, đêm trước những buổi tranh luận hay đàm phán quan trọng.
Cơn gió dìu dịu thoảng qua ô cửa sổ, cái lạnh buổi sớm tinh sương
thấm vào chăn. Một mùi hương tinh khôi và lạ lẫm tràn ngập cả căn
phòng.
Trời đã sáng trưng. Tôi đứng dậy đi đến bên cửa sổ. Vòm trời xanh
đen, không một gợn mây. Mặt trời vẫn nán lại đâu đó sau rặng núi. Bãi
cỏ phía trước khách sạn có cây cối, hoa và những bụi cây bung nở như
trong truyện cổ tích, màu sắc hoang sơ và dữ dội hơn bất cứ thứ gì tôi
từng thấy. Ngay cả hoa anh túc cũng thắm hơn sắc đỏ bình thường.
Vòi sen không có nước nóng.
Tường và trần gian phòng phục vụ bữa sáng ốp gỗ tối màu, gần như
đen. Một bàn gần cửa sổ được chuẩn bị sẵn. Tôi là vị khách duy nhất
trong khách sạn.