chữ chỗ này, bớt chữ chỗ kia, sắp xếp lại các chữ, các câu, các đoạn cho
mạch lạc hơn. Kể có đến 27 chương được Duyvendak biên soạn lại; dẫu
vậy cũng có đến 60 lỗi (theo D. Bodde). Nhưng bản dịch bằng tiếng Pháp
do Duyvendak hiệu đính đều được giới học giả cho là một trong những bản
hay nhất trong các thứ tiếng Âu châu.
b) B. Karlgen:
Học giả người Thụy Điển và là một nhà ngôn ngữ học, đã dựa vào các
phần thi văn trong Đạo Đức Kinh để chứng minh sự thuần nhất và tính cổ
đại của tác phẩm. Theo Karlgen thì quyển Đạo Đức Kinh được hình thành
vào thời nhà Chu (kéo dài đến giữa tk. 3 ttl): Vào thời nhà Tần (tk. 3 ttl) và
Tiền Hán (tk. 3 − 1 ttl), sách Đạo Đức Kinh đã có uy tín lớn đến nỗi các tác
giả Đạo giáo đều đã thường phải dựa vào sách này khi trình bày lý thuyết
của họ. Tiếp đó là những trích dẫn kinh sách của Lão Tử do các văn triết
nhân như Liệt Tử, Trang Tử, Hàn Phi Tử, Hoài Nam Tử... Karlgen đã liệt
kê ra 21 thí dụ các câu trích dẫn như thế. Bản văn Đạo Đức Kinh của
Vương Bật có 5.247 chữ, thì đã có 1.767 chữ được các văn triết nhân kể
trên trích dẫn.
c) E. Kimura:
Một công trình bình luận văn bản cặn kẽ nhất là do E. Kimura, học giả
người Nhật; phương pháp bình luận văn bản của ông được so sánh với
phương pháp bình luận văn bản Kinh Thánh rất cặn kẽ của Trường Tin lành
Đức. Sách bình luận của Kimura gồm 633 trang và được xem là quyển bình
luận ưu hạng nhất hiện nay về Đạo Đức Kinh . [Nguồn:
blog.paopevil.com]. Theo Kimura thì quyển Đạo Đức Kinh được kết tập
gồm ba loại văn liệu: các châm ngôn cổ, các đoạn văn mở đầu bằng lời các
cổ nhân (như các chương 15, 65) và sau cùng là các khúc văn với tiếng
“tôi” (như các chương 4, 25, 42). Loại văn liệu thứ ba này hẳn là được phát
xuất từ một nhà tư tưởng nhất định. Cả ba loại văn liệu này được đúc kết