Từ “Nhất” này nằm ở vị trí trung gian giữa Đạo và Nhị; Nhị được hiểu là
trời đất hoặc âm dương; hiểu là trời đất thì có phần đúng hơn, vì quan niệm
âm dương vào thời Lão Tử còn rất phôi thai và chưa được phổ biến. Vậy vị
trí trung gian của Nhất, và cả Nhất nữa, nghĩa là gì? Đã có nhiều giải thích
của rất nhiều học giả Trung Hoa, Á châu và Tây phương về những vấn đề
được nêu ra ở đây. Sau đây chúng tôi xin lược tóm giải thích có phần thích
hợp hơn cả.
Trước tiên, theo quan niệm Á Đông thì những con số trừu tượng được
dùng để nói thay cho những vật cụ thể (theo Cao Hanh) hay đúng hơn: để
chỉ về những phẩm tánh và những tương quan của các sự vật (theo M.
Granet, La pensée chinoise , Paris 1936, 134). Vậy “Một” là nguyên tố có
trước khi chia ra trời đất, hoặc xác thực hơn: là phẩm tính và tương quan
của Đạo đối với trời đất. Giải thích này có thể dựa vào những diễn tả tương
tự trong các văn thư cổ điển: Kinh Dịch , Hệ từ có câu: “Dịch có Thái cực,
Thái cực sinh lưỡng nghi...” (Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi...).
Kinh Lễ , thiên Lễ vận : “Lễ bắt gốc ở Thái nhất, phân chia ra làm trời đất”
(Lễ tất bản ư Thái nhất, phân nhi vi thiên hạ...). Cao Hanh dẫn thuyết văn
trong Lão Tử chính hỗ : “Ban đầu tất cả, Đạo dựng ở một, gây và chia ra
trời đất, hóa thành vạn vật (Duy sơ thái thủy, Đạo lập ư nhất, tạo phân thiên
địa, hóa thành vạn vật).
Vả lại, Đạo Đức Kinh chương 40 có viết: “Thiên hạ vạn vật sanh ư Hữu,
Hữu sanh ư Vô”. Ở chương 42 nói ngược lại: “Đạo sanh Một, Một sanh
Hai, Hai sanh Ba, Ba sanh vạn vật...”. Trong các đoạn đã trình bày trong
các bài trước, ta nhận thấy Đạo là Vô trong bản tính sơ thủy của nó, nhưng
lại là Hữu trong tương quan với thế giới hiện tượng. Do đó, Nghiêm Toản
có lý mà kết luận: Vậy, “ắt Đạo là cái Không mà Một là cái Có” ( Đạo Đức
Kinh , xb 1959, II, 56).
b) Vạn vật trời đất trong tương quan với Đạo: