Đi xa hơn bình diện luân lý và nghi thức xã hội: con người đòi hỏi những
hiểu biết và kinh nghiệm về những thực tại thiết thực và căn bản của hiện
hữu − của bản thân, vạn vật và nhất là của thực thể tối cao vừa là cội nguồn
vừa là cùng đích của cuộc sống − những kinh nghiệm về “Đạo”. Những đòi
hỏi cơ bản và sâu xa này là những hiện tượng xảy ra trong cùng một thời kỳ
vào giữa thiên niên thứ nhất trước Tây lịch và trong nhiều miền từ Trung
Quốc qua Ấn Độ đến Tây Á − Tiểu Á và Hy Lạp, mà trong chương ba ta đã
có dịp nói đến như là “biến động lịch sử lớn lao của thời đại trục”.
Những điều trong “khôn ngoan truyền thống” mà Lão Tử “phản kháng”
là những tri thức hời hợt chỉ dựa vào giác quan mà mất đi nội tâm (c. 12),
đặt ra những chuẩn mực tuyệt đối mà trong thực tế thì các sự vật và hành
động đều tương đối (c. 2), trọng kẻ mình cho là tốt mà xua đuổi kẻ mình
cho là xấu, chứ không đứng trên quan điểm của Đạo thâu nhận người lành
cũng như kẻ dữ (c. 62) − không hiểu được điều đó thì cho dầu có được gọi
là bậc trí giả cũng chỉ là mê lầm to; ngược lại đó là một điều huyền diệu
lớn: thị vị yếu diệu (c. 27). Lão Tử “phản kháng” cả những hình thức gọi là
nhân, nghĩa, lễ, trí, tín mà đích thực thì lòng nhân lòng từ của Đạo không
có (c. 18, 19, 38), cho là biết người nhưng chính mình thì lại mù tối (c. 33,
47), vì cuối cùng không biết làm cho lòng mình trống ra (hư tâm) để nhận
lấy Đạo và tác động của Đạo (c. 3).
Tư tưởng lòng trống để được đầy Đạo, bỏ đi tri thức giới hạn để nhận
được khôn ngoan huyền diệu, hoặc nói như trong truyền thống “khôn
ngoan sa mạc” của các giáo phụ Kitô giáo tiên khởi: bỏ đi “tri thức biết
điều thiện điều ác” của Ađam sa ngã để tìm lại được sự “thơ ngây vô tội”
của Ađam sơ thủy trong vườn Êđen; đó là những tư tưởng và kinh nghiệm
mà cũng đã có nhiều thế hệ các hiền nhân lẫn huyền nhân Kitô giáo và các
tôn giáo Đông phương đã từng suy nghĩ, trao đổi và bổ túc phong phú cho
nhau.