hai cũng bao hàm một ý nghĩa tương tự. Khi người ta không dòm ra ngoài
cửa sổ (mà có lẽ cũng đúng: chính vì khi người ta không dòm ra ngoài cửa),
mà người ta biết được con đường, lối đi, năng lực tác tạo của trời.
Như thế có phải đây là những câu chữ vô nghĩa, những câu chữ tự mâu
thuẫn với chính mình, và như vậy ta không bỏ công tìm hiểu làm gì?
Nhưng nếu ta không nghĩ rằng, tác giả của Đạo Đức Kinh ở đây không
muốn nói một điều vô nghĩa, thì hẳn ông không ngụ ý nói người ta phải ở
lại trong nhà và không được bén mảng đến bên cửa sổ để dòm ra ngoài,
mong biết được từng mọi sự, từng mọi biến cố chi tiết trong trời đất. Mỗi
người ai nấy trong chúng ta đều biết, điều ấy là không thể được. Vậy thì
bằng cách nào mà có thể biết được mọi sự trong trời đất? Và dựa vào điều
gì để tìm biết? Làm thế nào giải thích nghịch lý này?
Chúng ta có thể nghĩ rằng, phía sau lời nói xem ra mâu thuẫn của câu
văn trong Đạo Đức Kinh này, có hàm chứa một thức nhận khác thường. Tác
giả Martti Terho người Phần Lan, trong một bài hiệu đính của ông về một
bản dịch quyển Đạo Đức Kinh đã có đưa ra một nhận định đích đáng: “Cái
minh triết của phương Đông đôi khi thật xa lạ, nhưng nó có chiều sâu của
nó” (Parnassos 1951). Chúng ta thử đi vào chiều sâu này xem xét coi sao.
Một dấu vẫy giúp ta hiểu vấn đề ở đây có thể là câu khởi đầu chương 42
Đạo Đức Kinh : “Đạo sinh nhất ”: “Đạo sinh ra một ”. Vậy Đạo là năng lực
tác thành cái Một. Và ai biết đạo trời, kẻ ấy cũng nhìn biết trong cái năng
lực tác thành cái Một là tính Nhất thể, sợi dây hợp một cái đa thể thực tại.
Do đó, kẻ ấy không cần phải bỏ nhà hay dòm ra cửa, để biết được mọi sự,
“những gì trong trời đất”: bởi kẻ ấy biết được nó trong tính Nhất của nó.
Chỉ với ý nghĩa này mà mấy câu mở đầu chương 47 Đạo Đức Kinh mới
hiểu được.
Bây giờ ta đi thêm một bước nữa, đem đối chiếu mấy câu của Đạo Đức
Kinh trên đây với một số tư tưởng của các triết gia phương Tây, cách riêng