có ý làm [nghĩa là cố ý vô vi].
Người có đức nhân cao thì [do lòng thành mà] làm điều nhân, chứ không có
ý làm [không nhắm một mục đích gì]; người có lòng nghĩa cao thì làm điều
nghĩa mà có ý làm [vì so sánh điều nên làm – điều nghĩa – với điều không
nên làm]; người có đức lễ cao thì giữ lễ nghi, và nếu không được đáp lại thì
đưa cánh tay ra kéo người ta bắt phải giữ lễ nghi như mình. Cho nên đạo
mất rồi sau mới có đức (đức ở đây hiểu theo nghĩa nguyên lí của mỗi vật),
đức mất rồi sau mới có nhân, nhân mất rồi sau mới có nghĩa, nghĩa mất rồi
sau mới có lễ. Lễ là biểu hiện sự suy vi của sự trung hậu thành tín, là đầu
mối của sự hỗn loạn. Dùng trí tuệ để tính toán trước, thì [mất cái chất phác]
chỉ là cái lòe loẹt [cái hoa] của đạo, mà là nguồn gốc của ngu muội. Cho
nên bậc đại trượng phu [người hiểu đạo] giữ trung hậu thành tín mà không
trọng lễ nghi, giữ đạo mà không dùng trí xảo, bỏ cái này mà giữ cái kia.
Câu đầu có người dịch là: đức mà cao là không có đức, bởi vậy mới có đức.
Chữ đức thứ nhất và thứ ba là đức hiểu theo Lão tử; còn chữ đức thứ nhì
hiểu theo Nho gia, trỏ nhân, nghĩa, lễ.
Câu thứ hai, có sách chép là: “Thượng đức vô vi nhi vô bất vi; hạ đức vi chi
nhi hữu bất vi”: người có đức cao thì không làm mà không gì không làm;
người có đức thấp thì làm mà kết quả là có nhiều điều làm không được.
Đoạn cuối, hai chữ “tiền thức” có người hiểu là bậc tiên tri, tiên giác.
Chương này quan trọng, nói về sự suy vi của đạo đức tới chính sách hữu vi,
dùng trí xảo. Lão tử chê chủ trương trọng nhân, nghĩa, lễ, trí của Khổng giáo.
Nếu ông được thấy bọn pháp gia thì chắc ông còn chê hơn nữa và sau “thất
nghĩa nhi hậu lễ” tất đã thêm: “thất lễ nhi hậu pháp”.
39