không đầy 5.000 chữ. Bản lưu hành ngày nay dài hơn 5.000 chữ, chia là 81
chương ngắn, nhiều chương chỉ có trên 40 chữ, như chương 19, 24, 26;
chương ngắn nhất là chương 40 chỉ có 21 chữ; những chương dài nhất như
chương 20, chương 38, cũng chưa đầy 150 chữ
.
Có lẽ từ thế kỉ thứ II trước T.L, Hán Cảnh đế (156-140) cho ý nghĩa trong
Lão tử thâm thuý, nên gọi là kinh; và từ đó Lão tử còn gọi là Đạo Đức kinh
(cũng như Trang tử còn có tên là Nam Hoa kinh). Sở dĩ có tên Đạo Đức kinh
là vì:
81 chương chia thành hai thiên, thiên thượng từ chương 1 đến chương 37 gọi
là Đạo kinh; thiên hạ từ chương 38 trở đi gọi là Đức kinh. Sự đặt tên thiên
như vậy chỉ do lẽ chương 1 (chứ không phải trọn thiên thượng) nói về Đạo
và mở đầu bằng câu: “Đạo khả đạo phi thường đạo”; chương 38 (chứ không
phải trọn thiên hạ) nói về Đức và mở đầu bằng câu: “Thượng Đức bất Đức,
thị dĩ hữu Đức”, vì nội dung các thiên phức tạp và các chương không sắp đặt
theo một thứ tự nào cả.
Đạo Đức kinh mới đầu có bao nhiêu chương, chúng ta không sao biết được.
Đời Hán có một bản của Nghiêm Tuân gồm 72 chương nhưng bản đó nguỵ
tác, không đáng kể. Bản 81 chương ngày nay là của Hà Thượng công và của
Vương Bật.
Tác phẩm không thuần nhất cả về hình thức lẫn nội dung.
1) Về hình thức, thể văn, xét chung thì những câu hay vế số chữ thường cân
đối, như câu đầu:
Đạo khả đạo, phi thường đạo; danh khả danh, phi thường danh.
Vô, danh thiên địa chi thủy; hữu, danh vạn vật chi mẫu…
hoặc như trong chương 38: