(Tiểu Nhã)
Không sợ trời mà oán trời thì cũng gần như không tin có trời nữa.
Khổng tử ít nói tới trời và quỉ thần, cơ hồ tránh vấn đề siêu hình đó, nhưng
chắc chắn là ông sợ trời, tin có trời. Chỉ có điều là ông không nghĩ rằng trời
có tai mắt, mũi miệng như người (ông bảo trời không nói gì mà bốn mùa vẫn
xoay vần, trăm vật vẫn sinh hoá – Dương Hoá – 19); và nói đến trời ông
thường dùng chữ “thiên mạng”, mạng trời, tức như thiên lí, luật tự nhiên của
hoá công, như khi ông bảo: “Ta… năm chục tuổi biết được mạng trời”
(Ngô… ngũ thập tri thiên mạng – Vi chính – 4). Cái thiên mạng đó là cái luật
tự nhiên khiến cho mọi sự biến hoá hợp với lẽ điều hoà.
Quan niệm đó của Khổng tương đối tiến bộ và gần giống quan niệm của
Lão.
Nhưng tới Mặc tử, thì lại thụt lùi, trở về tín ngưỡng thời thượng cổ, cho trời
là chủ tể duy nhất của toàn thể nhân loại, là một đấng tối cao, rất nghiêm, rất
công bằng như gia trưởng trong nhà, quốc quân một nước, hễ mắc tội với
trời thì không trốn đi đâu được, vì ở đâu trời cũng thấy, nghe thấy hết (Thiên
bất vi lâm cốc u môn vô nhân, minh tất kiến chi 天不爲林⾕幽⾨無⼈,明
必⾒之 Thiên chí, thượng). Kết luận là người nào cũng phải tuyệt đối phục
tùng trời.
Lão tử gạt bỏ hẳn quan niệm đó, cả bộ Đạo Đức kinh chỉ có mỗi một
chương, chương 4, là nhắc tới “đế” (trời), nhưng lại đặt “đế” dưới đạo. Ông
bảo: “Đạo… tượng đế chi tiên”: Đạo có lẽ có trước thượng đế, nghĩa là sinh
ra thượng đế (vì đạo là mẹ của vũ trụ, cái gì có sau đạo thức là do đạo sinh ra
cả).
Có nhiều chương ông dùng chữ “thiên”, nhưng với nghĩa vòm trời như
ch.52: “thiên hạ hữu thuỷ” (những vật dưới vòm trời đều có nguồn gốc đạo),