vậy. Chẳng lẽ đức hồng y lại nên lánh khỏi công chúng hay sao?”
“Đúng.” More nhìn lên. “Đúng, tôi nghĩ, ông ta nên làm vậy một chút. Bớt
chút thèm khát lộ liễu, có lẽ.”
“Đã muộn,” Monmouth nói, “để mà cho hồng y một bài học về tính khiêm
nhường.”
“Những người bạn đích thực của ông ta đã nhắc từ lâu rồi, nhưng bị lờ đi.”
“Vậy ông tự coi mình là bạn của ngài?” Anh ngồi thẳng lại, khoanh tay. “Tôi
sẽ kể cho ngài ấy biết, đại pháp quan ạ, và thề trên máu đấng Kitô ngài ấy sẽ
thấy chút an ủi, khi ngài ngồi ở chốn lưu đày và tự hỏi vì sao ông đã vu khống
ngài với nhà vua.”
“Quý vị...” Bonvisi đang ngồi đứng thẳng lên, cáu kỉnh.
“Đừng,” anh bảo, “ngồi xuống. Hãy nói chuyện này cho thẳng thắn. Thomas
More ở đây sẽ kể cho các anh rằng, tôi lẽ ra đã là một tu sĩ bình thường, nhưng
cha tôi cho tôi theo nghề luật. Tôi hẳn sẽ suốt đời sống trong giáo hội, nếu tôi
được lựa chọn. Tôi, như các anh biết, thờ ơ với của cải. Tôi hiến mình cho
những việc thuộc phần hồn. Tiếng tăm trần thế đối với tôi không là gì cả.” Anh
nhìn cả lượt quanh bàn. “Vậy ông ta đã trở thành đại pháp quan như thế nào?
Có phải một sự tình cờ?”
Cửa ra vào bỗng mở; Bonvisi bật đứng lên; vẻ mừng rỡ thoát nạn tràn ngập
mặt anh ta. “Xin chào đón, xin chào đón,” anh ta nói. “Thưa quý vị: sứ thần
của Hoàng đế đây rồi.”
Đó là Eustache Chapuys, đi vào cùng lúc những món tráng miệng lên; viên
sứ thần mới, như người ta gọi hắn ta vậy, cho dù hắn đã ở cương vị đó từ mùa
thu. Hắn ta đĩnh đạc dừng bên ngưỡng cửa, để mọi người thấy và trọng vọng:
một người nhỏ bé còng lưng, mặc một chiếc áo khoác chẽn tay phồng với các
đường xẻ, xa tanh xanh lơ phồng lên qua lớp đen ngoài, bên dưới là đôi chân
khẳng khiu mặc quần bó đen. “Tôi rất tiếc vì đến muộn thế này,” hắn ta nói.
Hắn cười màu mè. ”Les dépêches, toujours Les dépêches.
”
“Đời sứ thần là thế mà.” Anh nhìn lên và mỉm cười. “Thomas Cromwell.”
“Ah, c’est le juif errant!”
Viên sứ thần lập tức làm cử chỉ xin lỗi: trong lúc đó mỉm cười nhìn quanh,
như thể khoái trá, bởi hiệu quả câu nói đùa của mình.