Anh cứ thong thả rồi quay ra hất đầu sai một thằng nhỏ phụ bếp mang cho
anh một chậu nước. Anh rửa tay sạch, lau khô bằng một cái khăn lanh. Anh
tháo tạp dề và treo lên một cái mắc trên tường. Theo những gì anh biết, mọi sự
vẫn y nguyên ở đó.
Anh thấy một thằng bé - ít tuổi hơn anh - đang bò ra lau những bậc cầu
thang. Nó vừa làm vừa hát:
“Scaramella va alla guerra
Colla lancia et la rotella
La zombero boro borombetta,
La boro borombo...”
“Vui lòng cho nhờ, Giacomo,” anh nói. Để anh đi qua, nên thằng bé né sang
bên vào khúc cong của bức tường. Anh sáng dịch chuyển quét sạch sự tò mò
trên gương mặt anh, giải tỏa hết, dìm quá khứ của anh vào dĩ vãng, làm sáng rõ
tương lai. Scaramella ra trận... Nhưng ta đã ra trận rồi, anh nghĩ.
Anh đã lên gác. Trong tai anh lùng bùng những hồi trống trận của bài hát
kia. Anh đã lên gác và không bao giờ xuống lại nữa. Trong một góc phòng kế
toán nhà Frescobaldi, một cái bàn đang chờ anh. Scaramella fa la gala, anh
ngâm nga. Anh đã ngồi vào chỗ. Chuốt nhọn một cái bút lông ngỗng. Suy nghĩ
của anh sục sôi cuộn xoáy, những lời thệ bằng thổ ngữ Tuscany, Putney,
Castile. Nhưng khi anh chuyển ý nghĩ lên mặt giấy thì chúng lại bằng tiếng La
tinh, hết sức trôi chảy.
Từ nhà bếp ở Tu viện Austin Friars lên, anh còn chưa kịp vào phòng thì đám
phụ nữ ở nhà đã biết rằng anh vừa đi gặp Anne.
“Thế nào,” Johane thắc mắc. “Cao hay thấp?”
“Chẳng thế nào cả.”
“Tôi nghe bảo cô ấy rất cao. Trông bợt bạt lắm không?”
“Phải, bợt bạt.”
“Người ta bảo cô ta duyên dáng. Khiêu vũ giỏi.”
“Chúng tôi có khiêu vũ đâu.”
Mercy nói, “Nhưng anh nghĩ sao? Một người bạn để cùng đọc Kinh
Thánh?”
Anh nhún vai. “Bọn con đâu có cầu nguyện.”