Đôi mắt kia nhìn anh, thẩm định. Cranmer gật đầu. “Cũng có ít đất. Tôi thì
không phải là con trưởng. Nhưng ông nuôi dạy tôi tử tế. Dạy tôi cưỡi ngựa.
Ông cho tôi cây cung đầu tiên của tôi. Ông cho tôi con chim ưng đầu tiên của
tôi để luyện.”
Đã chết rồi, anh nghĩ, người cha đã chết từ lâu: vẫn còn tìm kiếm bàn tay
anh ta trong bóng tối.
“Khi tôi mười hai tuổi ông gửi tôi vào trường. Tôi khổ sở ở đấy. Thầy dạy
rất khắc nghiệt.”
“Với anh? Hay với mọi người khác cũng thế?”
“Thành thực mà nói, tôi chỉ nghĩ tới bản thân. Tôi yếu ớt, rõ rồi. Tôi cho là
ông ấy tìm kiếm những kẻ yếu. Những thầy giáo tư thục ấy.”
“Anh không thể kêu với cha anh à?”
“Bây giờ tôi tự hỏi sao tôi lại không làm thế. Nhưng rồi ông mất. Lúc đó tôi
mười ba. Thêm một năm nữa rồi mẹ tôi gửi tôi đến Cambridge. Tôi sung
sướng được giải thoát. Khỏi ngọn roi của ông thầy. Chẳng phải ngọn lửa tri
thức thắp sáng gì. Gió đông thổi nó tắt. Oxford - đặc biệt là Magdalen, đức
hồng y nhà anh từng ở đấy - là tất cả vào thời ấy.”
Anh nghĩ, nếu ta sinh ra ở Putney, hằng ngày nhìn thấy dòng sông trôi, và
hình dung con sông trải mình vào biển. Ngay cả nếu ta chưa bao giờ thấy biển
thì trong đầu ta cũng đã có một hình ảnh về nó qua câu chuyện của những
người nước ngoài thỉnh thoảng lại ngược dòng sâu vào nội địa. Bạn biết chắc
một ngày ta sẽ ra đi đến một thế giới có những vỉa hè lát đá cẩm thạch và
những con công, những sườn đồi hừng hực nóng, mùi thơm của thảo dược bị
giẫm nát dâng lên theo những bước ta đi. Ta đã có kế hoạch cho những chuyến
du hành sẽ tới: chạm tay vào đất nung ấm sực, bầu trời đêm của một vùng khí
hậu khác, những loài hoa xa lạ, mắt tượng đá của những vị thánh của các dân
tộc khác chăm chăm nhìn. Nhưng nếu ta sinh ra ở Aslockton, trong những cánh
đồng bằng lặng dưới một bầu trời bao la thì hẳn ông bạn chỉ có thể hình dung
đến Cambridge thôi: không hơn.
“Một người ở trường tôi,” tiến sĩ Cranmer nói với vẻ không chắc chắn lắm,
“nghe đức hồng y kể rằng khi còn bé anh đã bị hải tặc bắt đi.”
Anh ngây nhìn anh ta một thoáng, rồi cười thong thả thích thú. “Tôi nhớ đức
cha tôi quá chừng. Bây giờ ngài lên phía Bắc rồi, chẳng còn ai để sáng tạo nên
tôi.”