nghếch, và giơ mấy ngón tay ra hiệu cho các thương nhân kia về khoản tiền đút
lót mà cậu nghĩ là hợp lý. Một trong ba người kia bèn nói với tay viên chức
cảng, bằng thứ tiếng Anh chật vật, “Thưa, ngài vui lòng giữ mấy đồng xu Anh
này giúp tôi chứ ạ? Tôi thấy chúng dư ra.” Tay viên chức bất chợt tươi cười
niềm nở. Ba người dân Hà Lan cũng cười; lẽ ra họ đã phải trả nhiều hơn. Khi
lên thuyền họ bảo, “Thằng bé này đi cùng với chúng tôi.”
Trong lúc chờ nhổ neo, họ hỏi tuổi cậu. Cậu bé bảo mười tám, nhưng bọn họ
cười và nói, “bé con, làm gì có chuyện đó.” Cậu bé bảo mười lăm, bọn họ trao
đổi với nhau rồi cho rằng độ tuổi mười lăm thì được; họ nghĩ cậu còn ít tuổi
hơn thế, nhưng họ không muốn làm cậu phải ngượng. Họ hỏi về những vết
thương trên mặt cậu. Có thể bịa ra nhiều chuyện để trả lời, nhưng cậu chọn
cách nói thật. Cậu bé không muốn mấy người này nghĩ cậu là thằng trộm bị
đòn nào đó. Họ quay sang trao đổi với nhau rồi một người có khả năng phiên
dịch nói với cậu, “Bọn ta đang bảo, người Anh tàn bạo với con cái. Và nhẫn
tâm. Đứa con thì phải đứng lên khi cha bước vào phòng. Đứa con luôn luôn
phải nói năng lễ phép, ‘thưa cha của con,’ và ‘thưa mẹ của con’.”
Cậu bé ngạc nhiên. Trên đời này có những người không tàn bạo với con cái
mình sao? Lần đầu tiên, cái khối nặng đè trong ngực cậu lay chuyển chút ít;
cậu nghĩ, vậy hẳn là có những chốn khác, tốt đẹp hơn. Cậu bé trò chuyện; cậu
kể với họ về con Bella, và họ tỏ vẻ ái ngại, họ không nói điều gì ngớ ngẩn kiểu
như rồi mày sẽ có con chó khác thôi. Cậu kể cho họ về tòa nhà Pegasus, về nhà
nấu bia của cha cậu, về chuyện Walter bị phạt vì chế bia dỏm mỗi năm hai lần
là ít. Cậu kể với họ lão ta bị phạt vì trộm củi, chặt cây của người khác, chuyện
lão chăn thả quá nhiều cừu trên đất công. Họ lắng nghe chăm chú; họ lấy các
mẫu len ra xem và bàn luận với nhau về trọng lượng và kiểu dệt, chốc chốc lại
quay sang cho cậu tham gia vào chuyện và hướng dẫn cậu. Nói chung họ
không quá lưu tâm đến vải đã dệt của Anh, cho dù các mẫu hàng này có thể
khiến họ đổi ý... Cậu bé đâm ra lạc mất mạch trò chuyện khi họ cố giải thích
cho cậu lý do vì sao họ đi Calais, về những người khác nhau ở đó mà họ quen.
Cậu bé kể cho họ về công việc thợ rèn của cha cậu, và người nói được tiếng
Anh trong bọn họ tỏ ra quan tâm, hỏi cậu có biết đóng móng ngựa không. Cậu
bèn làm điệu bộ cho họ thấy việc ấy như thế nào, sắt nóng đỏ và người cha cáu
bẳn ở một nơi chật chội. Cả bọn cười lăn; họ khoái xem cậu kể chuyện. Một
tay trong đám bảo, “kể hay đấy.” Trước khi thuyền cập bến, người trầm lặng
nhất trong số họ đứng lên nói gì đó trịnh trọng kỳ lạ, một người nghe rồi gật