“Ôi, họ đó là những người độc ác,” Alice buột kêu. “Mà ông có biết, vẫn
còn những người của dòng họ ấy không ạ?”
Có tiếng cười. “Ôi, thật mà,” Alice kêu lên, má đỏ bừng.
“... Và ta, lão nô bộc Wyatt của các người... đang kể chuyện này, bị tên bạo
chúa đó quẳng vào ngục hầm, ngủ trên rơm rạ, ngục hầm chỉ có một cửa sổ
nhỏ, cửa sổ có chấn song...”
“Mùa đông đến,” ngài Henry kể, “mà ta không có lửa sưởi; ta không có thức
ăn hay nước uống, vì lính gác quên ta rồi.” Richard Cromwell ngồi nghe, tay
chống cằm; cậu với Rafe nhìn nhau; cả hai cùng đưa mắt nhìn anh, và anh phác
một cử chỉ, giảm nhẹ đi nỗi khủng khiếp của quá khứ. Bọn họ đều biết ngài
Henry không bị bỏ quên ở Tháp. Đám lính gác gí những lưỡi dao nung đến
sáng rực vào da thịt ông. Chúng nhổ răng ông.
“Vậy ta phải làm gì?” ngài Henry tiếp. “May cho ta, ngục hầm ta nằm ẩm
ướt. Ta uống nước chảy trên tường.”
“Còn thức ăn?” Jo hỏi. Giọng con bé lắng xuống sợ hãi.
“À, bây giờ đến phần hay nhất của câu chuyện đây. Một hôm,” ngài Henry
kể, “khi ta đã nghĩ nếu không được ăn chắc ta sẽ chết, ta bỗng nhận thấy
khoảng sáng trên cửa sổ ngục hầm bị che mất; nhìn lên, ta thấy gì nào, hình
dáng một con mèo, một con mèo London nhị thể trắng đen. “Nào, Pusskins,” ta
nói với nó; và nó kêu meo meo, và vì kêu thế nó làm rơi cái miếng ngậm trong
mồm. Thử nghĩ xem nó mang gì đến cho ta?”
“Một con bồ câu!” Jo kêu to.
“Thưa tiểu thư, hoặc chính cô đã ở trong tù, hoặc cô đã nghe câu chuyện này
rồi.”
Mấy cô thiếu nữ đã quên rằng ông không có bếp, không có lửa, không có
xiên để nướng; bọn thanh niên cụp mắt xuống, ngại ngần với hình ảnh trong
đầu về một người tù xé bằng đôi tay bị cùm một mớ lỏng với thịt với chấy
rận...
“Rồi, điều tiếp đó ta nghe thấy, lúc nằm trên ổ rơm, là tiếng những quả
chuông rung lên, tiếng kêu gào ngoài đường phố, ‘Người nhà Tudor! Người
nhà Tudor!’ Không có món quà của mèo, ta chắc không còn sống để nghe tiếng
reo đó, để nghe tiếng chìa khóa xoay trong ổ, và chính vua Henry kêu lên,
‘Wyatt, ông đó ư? Hãy đến nhận phần thưởng của ông nào!’”