vậy hãy để anh sống. Nếu giáo thuyết của anh ta sai lạc và của ông là thực
đúng thì ông có thể nói cho anh ta trở lại với ông, ông là một người có khả
năng hùng biện, ông là người thuyết phục vĩ đại của thời chúng ta, chứ không
phải tôi - hãy nói để anh ta trở lại với Rome, nếu ông có thể. Nhưng nếu anh ta
chết ông sẽ không bao giờ biết được ông đã giành được linh hồn đó hay chưa,
có phải không?”
Margaret bước tới. “Đây phải không, thưa cha?”
“Đưa cho ông ta.”
“Tôi cho là còn các bản sao nữa?”
“Ông có thể trông đợi ở chúng tôi,” cô con gái nói, “mọi sự cẩn trọng đúng
mực.”
“Cha cô và tôi vừa thảo luận về các tu sĩ và thầy dòng. Làm thế nào họ có
thể là những thần dân tốt của nhà vua, nếu họ mang nợ lòng trung thành với
những người đứng đầu các dòng tu và tu viện của họ, những người đang ở các
nước khác, và có lẽ là thần dân của vua nước Pháp, hay của Hoàng đế?”
“Tôi cho rằng họ vẫn là người Anh.”
“Tôi ít gặp người xử sự như vậy. Cha cô sẽ bàn rộng hơn về điều tôi vừa
nói.” Anh cúi chào cô gái. Anh nắm bàn tay More, giữ những gân bắp lỏng lẻo
trong lòng bàn tay mình; những vết sẹo đã biến sạch, thật ngạc nhiên là chúng
đã biến mất, và bàn tay anh bây giờ trắng trẻo, bàn tay của một quý ông, thịt
mềm mại trên các khớp, dầu anh đã từng nghĩ những vết bỏng, những vết xước
mà bất kỳ thợ rèn nào cũng lãnh nhận trong nghề nghiệp, sẽ không bao giờ
phai mờ đi được.
Anh về nhà. Helen Barre ra đón anh. “Tôi vừa đi câu,” anh bảo. “Ở
Chelsea.”
“Bắt More sao?”
“Không phải hôm nay.”
“Áo của ông đến rồi.”
“Thế à?”
“Đỏ sẫm.”
“Lạy Chúa tôi.” Anh cười. “Helen...” Cô nhìn anh, có vẻ cô đợi. “Tôi vẫn
chưa tìm ra chồng cô.”
Hai bàn tay cô thả vào trong cái túi trước tạp dề. Hai bàn tay xê dịch, như
thể cô đang nắm vật gì đó; anh thấy rằng một bàn tay của cô ấp lấy bàn tay kia.