“Tôi đã lên cầu thang ở Lambeth - chờ một chút... tôi chạy lên cầu thang,
mang một bình bia nhỏ và suất bánh mì cho ông, để ông khỏi bị đói nếu thức
đêm. Đó là lúc bảy giờ tối. Ông đang đọc, và khi ngẩng lên hai bàn tay ông che
trên cuốn sách đó,” anh phác hình đôi cánh, “như ông muốn che chở nó. Tôi đã
hỏi ông, thầy More, có gì trong cuốn sách lớn đó? Ông nói, chữ, chữ, chỉ là
chữ thôi.”
More nghiêng đầu. “Chuyện ấy khi nào nhỉ?”
“Tôi nhớ là vào lúc tôi bảy tuổi.”
“Ồ, chẳng có nghĩa gì đâu,” More nói một cách thân tình. “Tôi không biết
anh lúc anh bảy tuổi, ừm, lúc ấy anh là...” ông ta cau mày, “anh hẳn là... còn
tôi...”
“Sắp vào Oxford. Ông không nhớ rồi. Nhưng sao ông lại phải nhớ?” Anh
nhún vai. “Tôi đã nghĩ lúc ấy ông còn đang mải cười tôi.”
“Ồ, rất có thể,” More nói. “Nếu quả thật một cuộc gặp gỡ như thế đã diễn ra.
Bây giờ chứng kiến những ngày này, khi mà anh tới đây và cười vào tôi. Nói
về Alice. Về cặp giò trắng trẻo nhỏ thó của tôi.”
“Tôi nghĩ chắc đó là một cuốn từ điển. Ông có chắc là ông không nhớ
không? Được rồi... thuyền của tôi đang đợi, tôi không muốn giữ các tay chèo
ngoài trời rét.”
“Ngày ở trong đây rất dài,” More nói. “Đêm còn dài hơn. Ngực tôi đau. Tôi
thở khó.”
“Vậy thì về lại Chelsea đi, thầy Butts sẽ tới thăm ông, khỉ thật Thomas
More, ông làm gì cái thân ông thế này? Bịt mũi lại và uống cho hết chỗ thuốc
hôi um này đi.”
“Đôi lúc tôi nghĩ tôi sẽ không còn thấy buổi sáng hôm sau nữa.”
Anh mở cửa. “Martin đâu?”
Martin ba mươi tuổi, rắn rỏi, mái tóc vàng hoe đã thưa thớt dưới chiếc mũ
cát: khuôn mặt dễ chịu với nụ cười nhăn nheo. Thành phố quê hương anh ta là
Colchester, cha anh ta là một thợ may, và anh ta học đọc theo bản Kinh Thánh
của Wycliffe, cuốn sách cha anh ta giấu dưới mái nhà lá tồi tàn. Đây là một
nước Anh mới; một nước Anh nơi Martin có thể phủi bụi trên bản văn cũ xưa
đó, và cho hàng xóm xem. Anh ta có các anh em trai, đều là người đọc Kinh
Thánh. Vợ anh ta đang nằm cữ đứa con thứ ba, “nhảy ổ,” như anh ta gọi. “Có
tin gì mới không?”