ta bàn tán về chuyện đó ở Antwerp. Tại sao anh không đi sang đó và hỏi lấy cô
ta?”
“Cô ta lấy chồng rồi.” Anh sửng sốt, nghĩ rằng việc riêng của mình đã thành
chuyện đàm tiếu của thiên hạ.
“Anh nghĩ cô ta sẽ không ra đi với anh à?”
“Nhiều năm rồi. Tôi đã thay đổi.”
“Ja
. Bây giờ anh giàu rồi.”
“Nhưng người ta sẽ nói tôi ra sao, nếu tôi dụ dỗ cô ấy bỏ chồng?”
Hans nhún vai. Họ thật đơn giản, những người Đức này. More nói những
người theo Luther thông dâm trong giáo hội. “Thêm nữa,” Hans nói, “có vấn
đề về...”
“Về cái gì?”
Hans lại nhún vai: không có gì. “Không có gì đâu! Anh sẽ trói cổ tay treo tôi
lên đến khi tôi chịu thú nhận hả?”
“Tôi không làm thế. Tôi chỉ dọa sẽ làm thế thôi.”
“Ý tôi chỉ là,” Hans dịu giọng, “có vấn đề ở chỗ tất cả những người đàn bà
khác đều muốn lấy anh. Những người vợ ở Anh, họ đều giữ những cuốn sổ bí
mật ghi chép về những người họ định lấy khi đã đầu độc xong ông chồng hiện
thời. Và anh nằm ở hàng đầu tất cả các danh sách đó.”
Trong những lúc rảnh rang - vài bận mỗi tuần - anh xem qua các báo cáo ở
Văn khố. Dù người Do Thái đã bị cấm ở vương quốc, ta không thể biết những
di dân sẽ dạt vào bờ theo một con triều may mắn, và chỉ một lần, trong một
tháng trong cả ba trăm năm đó, ngôi nhà này mới trống rỗng. Anh đưa mắt qua
những báo cáo của các đời quản lý nhà kế tiếp nhau, và xem xét, tò mò, những
hóa đơn nhận tài trợ từ những cư dân của nơi này đã chết, viết bằng thứ chữ
tượng hình Do Thái. Một số người đã sống năm mươi năm bên trong những
bức tường này, e sợ dân London bên ngoài. Khi anh đi dọc những lối ngoằn
ngoèo, anh cảm thấy bước chân của họ dưới chân mình.
Anh đi gặp hai người còn lại. Họ là hai người phụ nữ khó xác định tuổi tác,
im lặng và cảnh giác, có tên là Katherine Wheteley và Mary Cook.
“Các bà làm gì?” Cho hết ngày, ý anh là thế.
“Chúng tôi cầu nguyện.”