Họ bắt đầu đi thả bộ mỗi chiều, đi xuống con đường bụi bặm, đi qua
bãi cỏ và dưới những cây to. Họ không nói chuyện nhiều - Jack luôn đi bộ,
cúi gằm mặt xuống và tay đút túi, ngẫm nghĩ - nhưng thời gian đi ra ngoài
của họ chẳng bao lâu trở thành mục đích tối cao trong ngày của Emily. Cô
ngóng chờ việc đi ra ngoài hăm hở như Jack ngóng chờ việc được uống khi
họ về nhà. Mỗi chiều cô chờ đợi với sự thiếu kiên nhẫn ngày càng tăng cho
đến lúc cô có thể mặc áo jacket da lộn, đi đến bàn của anh và nói “Anh có
muốn đi dạo không?”
“Đi dạo nào,” anh sẽ nói, ném chiếc bút chì xuống như thể vui mừng
rũ bỏ được nó. “Lạy Chúa, đó là một ý kiến tuyệt vời.”
Và những lần đi dạo thậm chí còn hay hơn sau khi họ “thừa kế” một
con chó từ vài người hàng xóm ở dưới phố, một nàng chó săn lai trắng-và-
vàng nâu tên là Cindy. Nàng nhảy cẫng lên theo họ hoặc nhảy dựng lên
quanh họ, thể hiện, hoặc chạy đua trên cánh đồng để đào bới cái gì đó.
“Xem này, Jack,” một lần Emily nói, trong lúc nắm lấy tay anh. “Cô
nàng sẽ đi vào trong cái ống dưới phố - cô nàng muốn đi qua cái ống và ra
bằng đầu bên kia.” Và khi cô nàng hiện ra mập mờ và run run ở đầu phía
bên kia của cái ống, cô kêu lên “Tuyệt quá, Cindy! ôi, chó con! Chó con!”
Cô vỗ tay. “Chẳng phải là khéo quá hay sao, Jack?”
“Ừ, khéo quá, em nhỉ.”
Lần đi dạo đáng ghi nhớ nhất là vào một buổi chiều gió hiu hiu tháng
Tư. Ngày hôm đó họ đi dạo xa hơn, và đi về nhà qua một cánh đồng bị lầy
nặng nề, mệt mỏi nhưng hăng hái, họ đi đến một cây sồi độc nhất dường
như vươn thẳng lên trời giống như một bàn tay khổng lồ. Nó buộc hai
người phải im lặng khi họ đứng dưới bóng cây nhìn lên qua những tán lá,
và cả hai đều nhớ ra rằng Emily có sáng kiến này trước. Cô cởi chiếc áo da
lộn và thả nó xuống đất. Rồi cô mỉm cười với anh - cô nghĩ rằng anh trông