hai năm một lần, và không một ai được phép sử dụng nó; có lần Sarah đã
giải thích rằng đó là hành động ngông cuồng duy nhất của anh. “Tony ở nhà
ạ?” Emily hỏi.
“Không; anh ấy đi câu cá cả ngày với một vài người bạn đến từ
Magnum. Thậm chí anh ấy chưa biết một chút gì về việc này.” Rồi, sau khi
cô đỗ xe cách chiếc Thunderbird ở một khoảng cách cần thiết và bước ra
khỏi xe đứng nhăn mặt với chìa khoá xe trong tay, cô nói “Này em, Emmy,
chị biết rằng chắc hẳn em đang đói lắm nhưng chúng ta nên đến chỗ Pookie
trước đã nhé. Ý chị là chị không muốn để mẹ nằm như thế ở đó, được
không em?”
“Vâng, đương nhiên rồi,” Emily nói. “Vâng, đương nhiên rồi.” Và họ
bước trên sỏi lạo xạo đến một cái lều “garage” được mặt trời hun nóng, nơi
không gian thật quá chật hẹp để có thể đỗ được những chiếc ô tô đắt tiền.
Emily đã đến thăm mẹ nhiều lần ở căn hộ trên gác - lắng nghe mẹ nói hàng
giờ dưới cái trần gỗ ép quá thấp, nhìn chằm chằm vào những bức ảnh của
chính cô và Sarah khi còn bé được treo trên tường gỗ ép bẩn thỉu, chờ đợi
cơ hội có thể thoát ngay từ lúc đầu - nhưng không một cảnh tượng nào như
vậy làm cho cô liên tưởng được đến những gì mà giờ cô đang nhìn thấy ở
trên nóc của những bậc thang ọp ẹp.
Một bà già trần truồng nằm sấp, như thể bà ta bị vướng chân vào thảm
và ngã về đằng trước. Một chỗ chỉ toàn hơi nóng, hơi nóng mà không thể
chịu đựng nổi - có thể mẹ đã bị ngộp chỉ vì hơi nóng - và với những chai
uỷtki thì quả đúng là như vậy: có sáu hay tám chai gì đó ở quanh phòng, tất
cả đều là các chai hiệu “Bellows Partners’ Choice” và tất cả đều hết nhẵn.
(Liệu mẹ có cảm thấy ngượng khi tống tất cả những chai rượu này vào
thùng rác để bọn trẻ đi đổ không nhỉ?) “Các con, mẹ thật sự xin lỗi về điều
này,” bà dường như muốn nói như vậy. “Chẳng phải chúng ta không thay
đổi được gì hay sao?”