về bản chất đích thực của các nhận thức giác quan (tưởng) đó, nhưng nó không
chạy theo những nhận thức hay tâm tưởng đó.
Khi tâm có trí tuệ, nó không còn ‘chọn lấy’ này nọ, (tức không còn chạy
theo thứ này thứ nọ, nhận khổ, nhận sướng, thích, ghét...). Khi đó, trong bất kỳ tư
thế nào, ta cũng hoàn toàn rõ-biết về sự khởi sinh của sướng và khổ. Đây được
gọi là sự tu tập đúng đắn, sự rõ-biết có mặt trong tất cả mọi tư thế. Chữ “tất cả
mọi tư thế” không chỉ dùng để chỉ các tư thế của thân, mà ở đây chỉ luôn về tâm,
cái tâm có sự chánh niệm và sự hiểu biết rõ ràng về sự thật mọi lúc, mọi nơi. Khi
định được tu tập và phát triển một cách đúng đắn, trí tuệ khởi sinh như vậy. Đây
được gọi là 'trí tuệ minh sát', 'trí tuệ thâm nhập', là sự hiểu-biết về sự thật.
Có hai loại bình an—loại thô tế và loại vi tế. Loại bình an có được từ trạng
thái định là loại còn thô tế. Khi tâm được bình an thì khởi sinh niềm hỷ lạc, hạnh
phúc. Rồi tâm coi sự hạnh phúc đó là sự bình an. Nhưng hạnh phúc và không
hạnh phúc, sướng và khổ chính là sự trở-thành và sự sinh. (Còn đối đãi sướng-
khổ là còn sự trở thành và sự sinh, theo lý của vòng Duyên Khởi). Do vậy, ngay
đó vẫn còn chưa thoát ra khỏi vòng luân hồi sinh tử (samsāra), bởi chúng ta vẫn
còn dính chấp vào sướng-khổ. Do vậy, hạnh phúc đó không phải là bình an, và sự
bình an kiểu đó chưa phải là hạnh phúc đích thực.
Loại bình an khác là loại bình an có được từ trí tuệ. Khi có trí tuệ, chúng ta
không nhầm lẫn giữa yếu tố hạnh phúc (lạc) với sự bình an; chúng ta rõ biết về
cái tâm quán sát và rõ biết về bản chất sướng khổ thì mới là sự bình an. Sự bình
an khởi sinh từ trí tuệ không phải là hạnh phúc, nhưng chính cái nhìn thấy sự thật
về sướng khổ mới là sự bình an. (Cái đó là cái tâm thấy-biết). Sự dính mắc vào
sướng khổ không còn khởi sinh, vì cái tâm thấy biết đã vượt lên trên sự dính mắc
đối đãi đó. Đây mới chính là mục tiêu đích thực của việc thiền tập, của Thiền
Phật giáo.