Jürg Zimmermann, một nhà khoa học 32 tuổi đầy tham vọng sau đó
đã mô tả hoạt động của dự án trong thời kì đầu có gì đó “cổ xưa” và
“hơi kỳ quặc”. “Chúng tôi không thực sự nắm được cấu trúc của
enzim, nên khi tôi vẽ chúng [trên giấy] thì tôi đã cố tạo ra hình ảnh
mà tôi nghĩ rằng chính là nó. Sau đó tôi lại vẽ lại lần nữa, cố gắng
hình dung trên giấy xem hình dáng enzim như thế nào.”
20
Giống như một người thợ khóa đang cố gắng rèn nên chiếc chìa
khóa đúng, Zimmermann đã tạo ra hàng ngàn hợp chất và nộp
chúng cho nhà sinh học tế bào Elisabeth Buchdunger, để xác minh
kết quả. Từng chút một, Zimmermann đã dần phát hiện ra tại sao sự
thay đổi cấu trúc phân tử có thể ảnh hưởng lên đặc tính hóa chất,
và từ đó là tính hiệu quả, độc tính cũng như độ hòa tan của hợp
chất. “Trong giai đoạn này, các tạp chí khoa học đã cho rằng việc
chế tạo một hợp chất chọn lọc [chỉ liên kết với Bcr-Abl] sẽ không
bao giờ khả thi... Có lẽ điều tuyệt vời nhất mà chúng tôi từng làm
chính là tiếp tục tin tưởng rằng cuối cùng cả nhóm sẽ thành công và
hoàn toàn không chấp nhận việc từ bỏ.”
21
Và mỗi ngày,
Zimmermann cùng cả nhóm lại tiến gần hơn đến đáp án của câu đố.
Chín năm sau, vào tháng 2/1994, nhóm nghiên cứu tuyên bố rằng
họ đã tổng hợp thành công hợp chất có thể ức chế đến 90% tế bào
ung thư bạch cầu trong ống nghiệm. Hợp chất cho thấy tác dụng
tích cực trong việc ngăn chặn các tế bào ung thư bằng cách liên kết
với protein Bcr-Abl mà không làm hại đến những tế bào bình
thường. Nó sẽ sớm trở thành loại thuốc đặc trị ung thư đầu tiên ra
đời dựa trên những hiểu biết chính xác về kiến thức sinh học. Đây
quả thực là cú hích lớn. Hợp chất nhắm đến mục tiêu này được dán
nhãn STI571 và trở thành một ứng cử viên tiềm năng trong quá trình
chờ nghiên cứu trên động vật cũng như thử nghiệm trên cơ thể
bệnh nhân.
22
Trong y học, khi các nhà khoa học khám phá được một bí mật,
thường họ sẽ tìm ra một bí mật khác bên trong. Để khai thác các
phát hiện trong lĩnh vực sinh học, một nhà khoa học cần phải nắm
vững hóa học hữu cơ. Sau này, ngành di truyền học ở người lại tạo
nên nền tảng vững chắc cho việc nghiên cứu phân tử ở bệnh nhân