vài mẩu chuyện hay hay về việc người Tây phương nói tiếng Việt. Sau đây
là ví dụ của ông :
Trong tiếng ba, nếu thêm thanh huyền sẽ thành chữ bà, thanh hỏi
thành bả, thanh sắc thành bá, thanh nặng thành bạ và thanh ngã thành bã.
Như vậy, sáu thanh (cũng có thể gọi là sáu dấu) trong một tiếng làm khác
hẳn nghĩa mỗi tiếng khi phát âm : ba bà bả [vả] bá bạ bã. Theo lời giải
nghĩa của Đắc Lộ, thì sáu tiếng trên đây hoàn toàn là một câu và có đủ
nghĩa như sau : Ba bà thổi vào mặt (hay tát vào mặt) bà thứ phi đã bị duồng
dẫy (bỏ rơi) một thứ cặn thuốc (thuốc độc)
. Để bạn đọc hiểu rõ hơn ý
nghĩa câu trên mà Đắc Lộ đã trình bày, chúng tôi tưởng cần phải trích ngay
những định nghĩa về mấy chữ đó do Đắc Lộ ghi trong cuốn Tự điển của
ông xuất bản tại La mã năm 1651
:
« Ba : tres : tres, vel tria. ba ngôi : tres pessoas : tres personae.
« Ba, bổ [vổ] tay ba [ca] hát : fazer som com as palmas pera cantar
: plaudere manibus ad canendum.
« Ba, thịt ba rội : carne di porco gorda com camas de magra : caro
suila lardo intersita.
« Bá : bá léy : tomar o que lhe não dão : rapio, is.
« Bá : molher segunda de principe, ou gouernador : concubina
principis viri.
« Bà : auo, Senhora : auia, domina.
« Bà, đức bà : molher de principe, ou Gouernador grande : vxor
principis viri.
« Bà, đân bà : femea : faemina, ae.