chamada vulgarmte Cacham » (Cư sở Dinh Chàm, bình dân gọi là Ca
Chàm) ; Phần ba, « Residencia de Nuocman na pua de Quinhin » (Cư sở
Nước Mặn trong tỉnh Qui Nhơn)
. Sau đây là những chữ quốc ngữ trong
bản tường trình của Antonio de Fontes.
Tuy số chữ quốc ngữ không nhiều, nhất là đối với một bản tường
trình dài 34 trang ; nhưng cũng như tài liệu trên đây của G. Luis, nó giúp
chúng ta hiểu hơn về giai đoạn thành hình 1626.
Dĩgcham
: Dinh Chàm.
Núocmam
: Nước Mặn.
Quinhin
: Qui Nhơn.
Sinua
: « No principio de Janro foi o Pe Visitor a corte de Sinua
visitar a Rei » (Đầu tháng giêng, L.m. Giám sát [G. de Matos] đến chầu
vua [Chúa Sãi] ở triều đình Xứ Hóa [Thuận Hóa]).
Sinuâ
: Xứ Hóa.
Orancaya : « Entre todos estas pessoas a principal foi huã
Orancaya, uo molher pequena do Rej velho ja defunto (...) Chamouse no
bautismo Maria »
(Trong số những người [đã chịu Thánh Tẩy] có một
người quan trọng là Orancaya, hay là thứ phi của vị tiên vương đã từ trần.
Khi chịu phép Thánh Tẩy bà mang tên thánh là Maria). Chúng tôi không
hiểu chữ Orancaya bây giờ phải viết thế nào, chỉ biết rằng bà là thứ phi của
Chúa Nguyễn Hoàng, sau này được truy tặng là Minh Đức Vương thái phi.
Bà được L.m. F. de Pina làm phép Thánh Tẩy vào năm 1625. Bà tận tâm
giúp đỡ các nhà truyền giáo và các giáo hữu. Bà Minh Đức qua đời khoảng
năm 1649, thọ 80 tuổi
.
Quan
: Quảng. Quảng Nam.