thảo những chương này có lẽ là sau khi tác giả đã về tới La Mã (27-6-
1649).
Bản thảo bằng La ngữ gồm 62 tờ, tức 124 trang chữ, trong khổ 14 x
24 cm, mỗi trang trung bình có 43 dòng chữ viết nhỏ li ti. Bản thảo chia
làm hai quyển : Quyển I, thuật lại lịch sử tổng quát của Đàng Ngoài về
phương diện địa dư, chính trị, hành chính, kinh tế, tiền tệ, thuế má, tôn
giáo, văn học, phong tục v.v... ; Quyển II, dầy gấp đôi Quyển I, ghi lại lịch
sử truyền bá Phúc Âm ở Đàng Ngoài từ 1627-1646.
Sau đây chúng tôi xin ghi lại những chữ quốc ngữ trong bản thảo
của Đắc Lộ. Chúng tôi cũng xin bạn đọc miễn cho khỏi ghi số tờ có chữ
quốc ngữ, vì nếu ghi lại hết thì quá dài.
QUYỂN MỘT
Tình trạng « trần thế » nước Đông Kinh [Đàng Ngoài] (De statu
temporali regni Tungkin), f. 1r-21v
Tung : Đông. Đông Kinh.
kin : kinh. Đông Kinh.
Annam : An Nam.
Ainam : Hải nam. Đảo Hải Nam.
Chúacanh : Chúa Canh. Có lẽ là Chúa Cao, tức là nhà Mạc cai trị
vùng Cao Bằng.
Che ce : Kẻ Chợ. Thủ đô Thăng Long.
Chúa bàng : Chúa Bằng. Đắc Lộ dịch chữ bằng có nghĩa là công
bằng ; nhưng thực ra phải dịch là bình an. Vì tác giả gọi Cháu Trịnh Tùng