Nhưng có quá nhiều nô lệ chết trong các trại giam. Columbus lo ngại phải
trả lại tiền thưởng cho những “nhà đầu tư”, vậy nên ông buộc phải thực hiện
lời hứa đưa những con tàu chất đầy vàng trở về bằng mọi giá. Ở khu vực
Cicao thuộc đảo Haiti, nơi Columbus và người của ông tưởng tượng ra
những mỏ vàng khổng lồ, họ ra lệnh cho tất cả những ai từ 14 tuổi trở lên
cứ ba tháng một lần phải nộp đủ một lượng vàng. Khi đem vàng đến nộp,
những người này được đeo một xu bằng đồng vào cổ. Thổ dân nào bị phát
hiện không có xu đồng sẽ bị chặt tay cho đến chết.
Những thổ dân này đã phải thực hiện một nhiệm vụ bất khả thi. Thứ vàng
duy nhất có được ở đây chỉ là số bụi vàng ít ỏi gom góp từ các dòng suối.
Họ phải bỏ trốn, bị chó săn đuổi và bị giết chết.
Người Arawak cố gắng tập hợp thành một đội quân chiến đấu chống lại
người Tây Ban Nha − kẻ thù có áo giáp, súng hỏa mai, kiếm và ngựa. Khi
người Tây Ban Nga bắt được tù nhân, họ thường đem treo cổ hoặc thiêu
sống. Những vụ tự sát tập thể của người Arawak đã xảy ra, chủ yếu bằng
nhựa độc từ cây sắn. Trẻ sơ sinh cũng bị giết nhằm tránh bị người Tây Ban
Nha giết. Trong vòng hai năm, các vụ giết người, tự sát đã khiến số lượng
khoảng 250 nghìn thổ dân da đỏ trên đảo Haiti giảm xuống chỉ còn một
nửa.
Khi đã chắc chắn không còn vàng trên đảo, thổ dân da đỏ bị bắt làm nô lệ
lao động trong các đồn điền lớn được lập dựa theo chế độ ủy trị kiểu Tây
Ban Nha (ủy quyền cho các nhà thám hiểm hoặc nhà chinh phục cai quản
thổ dân và vùng đất mới do họ phát hiện – ND), sau này được đặt tên là
encomiendas. Phải làm việc với cường độ chóng mặt, hàng nghìn nô lệ đã
chết. Đến năm 1515, chỉ còn khoảng 50 nghìn thổ dân sống sót. Năm 1550,
còn 500 người. Báo cáo năm 1560 cho thấy không còn thổ dân Arawak bản
địa hay con cháu nào của họ còn sống trên đảo.