(sau này bị chìm dưới nước) để tới Alaska. Sau đó họ tiến dần về phía nam,
tìm đất và nơi ấm áp, trong một cuộc di cư kéo dài hàng nghìn năm đã đưa
họ tới Bắc Mỹ, rồi Trung và Nam Mỹ. Ở Nicaragua, Brazil và Ecuador vẫn
còn lưu giữ dấu chân hóa thạch của họ, cùng với dấu vết của loài bò rừng
xuất hiện khoảng 5 nghìn năm trước. Như vậy, ít nhất họ đã đặt chân tới
Nam Mỹ.
Sống rải rác khắp vùng đất rộng lớn ở châu Mỹ, thổ dân da đỏ có khoảng 75
triệu người vào thời điểm Columbus tới, trong đó có khoảng 25 triệu người
ở Bắc Mỹ. Để thích nghi với môi trường đất và khí hậu khác nhau, họ phát
triển hàng trăm nền văn hóa bộ lạc, khoảng hai nghìn ngôn ngữ khác nhau.
Họ đã hoàn thiện nghệ thuật canh tác nông nghiệp và tìm ra cách thức trồng
ngô: ngô không thể tự mọc, mà phải gieo hạt, chăm sóc, tưới bón, thu
hoạch, phơi khô và tách lấy hạt. Họ cũng khéo léo phát triển một loạt cây
rau, hoa quả, cùng với lạc, sôcôla, thuốc lá và cao su.
Chính người da đỏ cũng đã tự mình thực hiện cuộc cách mạng nông nghiệp
mà người châu á, âu và Phi tiến hành cùng thời điểm đó.
Trong khi nhiều bộ lạc da đỏ còn du cư, săn bắn và kiếm tìm thức ăn theo
kiểu công xã bình quân, một số đã bắt đầu sống thành các cộng đồng định
cư, ở đó có nhiều lương thực hơn, dân số đông hơn, có sự phân chia lao
động giữa đàn ông và phụ nữ, chia của cải nhiều hơn cho những người đứng
đầu bộ lạc và cha đạo, dành nhiều thời gian giải trí hơn cho các hoạt động
xã hội và nghệ thuật, cũng như chăm lo xây dựng nhà cửa. Khoảng 1.000
năm trước Công nguyên, trong khi các công trình ở Ai Cập và Mesopotamia
đang được xây dựng, người thổ dân Zuni và Hopi (vùng New Mexico ngày
nay) cũng đã bắt đầu xây dựng làng mạc, gồm những ngôi nhà trên nền đất
bậc thang náu trong các vách đá, sườn núi nhằm tránh kẻ thù, mỗi ngôi làng
có hàng trăm căn nhà như vậy. Trước khi người châu âu tới đây, người da