rộng lớn, các y sỹ của tàu khám xét kỹ lưỡng từng người trong số họ, phụ
nữ và đàn ông đều hoàn toàn trần truồng… Những người nào được cho là
khỏe mạnh được xếp sang một bên và đánh dấu lên ngực bằng một dụng cụ
sắt nung đỏ nhận dạng công ty của Pháp, Anh hay Hà Lan… Những nô lệ
đã đánh dấu được đưa trở lại cũi và tiếp tục đợi cho tới khi được đưa lên
tàu, có thể từ 10 đến 15 ngày…
Sau đó, họ được đưa lên các con tàu chở nô lệ, chật chội như bị lèn trong
quan tài, bị xích lại với nhau trong bóng tối, trên sàn tàu ẩm và trơn, ngột
ngạt bởi mùi phân hôi thối của chính họ. Các tài liệu thời đó miêu tả tình
trạng này như sau:
Chiều cao của hầm tàu chưa đầy 0,5 m, không bằng khoảng cách hai vai,
đến nỗi những con người kém may mắn đó không thể cựa mình, trong khi
họ bị xích chân và cổ vào sàn và thành tàu. Ở nơi chật hẹp đó, sự cùng cực
và ngột ngạt kinh khủng đến mức những người da đen phát điên!
Cứ mỗi lần nghe tiếng la hét lớn từ hầm tàu, nơi những nô lệ da đen bị xích
lại với nhau, thủy thủ lại mở nắp khoang và phát hiện nhiều nô lệ ở trong
cũi chết ngạt, nhưng cũng nhiều người giết hại lẫn nhau chỉ vì để có thêm
không khí hít thở. Nô lệ cũng thường nhảy khỏi tàu, thà chết chìm còn hơn
tiếp tục chịu đựng. Theo một người làm nhiệm vụ canh gác, hầm tàu giam
nô lệ “nhuộm đỏ máu, giống như lò sát sinh!”
Trong điều kiện tồi tệ như vậy, cứ ba người da đen được vận chuyển trên
các con tàu thì có một người chết. Nhưng lợi nhuận khổng lồ (thông thường
gấp hai lần khoản đầu tư cho một chuyến đi như vậy) cũng đã đáng giá đối
với các lái buôn nô lệ và vì thế người da đen vẫn bị “lèn chặt” như cá ướp.
Đầu tiên là người Hà Lan, sau đó đến người Anh thống trị việc buôn bán nô
lệ. (Khoảng năm 1795, ở Liverpool đã có hơn 100 tàu buôn nô lệ, chiếm
hơn một nửa các hoạt động buôn bán nô lệ ở châu âu). Một số người Mỹ ở