Tại London, hai thanh niên trẻ người Mỹ đã lẻn vào đại sứ quán Mỹ trong
buổi lễ kỷ niệm Ngày Quốc khánh Hoa Kỳ mặc dù không được mời, họ đã
nâng ly và hô vang: “Vì tất cả những người đã chết và đang chết dần ở Việt
Nam.” Họ bị bảo vệ tống cổ ra ngoài. Tại Thái Bình Dương, hai ngư dân trẻ
người Mỹ đã cướp và khống chế một tàu vận chuyển vũ khí của Mỹ cung
cấp bom cho căn cứ không quân tại Thái Lan. Họ đã kiểm soát con tàu và
thủy thủ đoàn, trong bốn ngày ròng rã họ đã phải sử dụng thuốc kích thích
giữ tỉnh táo cho đến khi tàu vào đến vùng biển Campuchia. Cuối năm 1972,
một báo cáo của Hiệp hội Báo chí từ York, bang Pennsylvania công bố:
“Năm nhà hoạt động chống chiến tranh đã bị cảnh sát bang bắt hôm nay vì
bị khẳng định đã phá hoại phương tiện đường sắt gần một nhà máy chế tạo
bom cung cấp cho chiến tranh Việt Nam.”
Tầng lớp trung lưu và giới học giả vốn không quen thuộc với các hoạt động
tuyên truyền cũng đã bắt đầu lên tiếng. Tháng 5 năm 1970, tờ New York
Times đưa tin từ Washington: “Một nghìn luật sư tham gia phản đối chiến
tranh.” Các tập đoàn lớn bắt đầu lo lắng liệu chiến tranh có ảnh hưởng đến
hoạt động kinh doanh dài hạn của mình hay không; tạp chí cũng lên tiếng
chỉ trích sự diễn tiến kéo dài của chiến tranh. Khi việc phản đối chiến tranh
ngày càng dâng cao, các thành viên trong chính phủ hoặc gần cận với chính
phủ cũng không hoàn toàn đồng tình nữa. Thí dụ điển hình nhất là trường
hợp của Daniel Ellsberg.
Ellberg tốt nghiệp kinh tế tại Harvard, từng là nhân viên hàng hải, được tập
đoàn RAND thuê tiến hành các nghiên cứu đặc biệt và bí mật cho chính phủ
Hoa Kỳ. Tại Bộ Quốc phòng, Ellberg tham gia viết lịch sử chiến tranh tại
Việt Nam. Sau đó ông đã quyết định công bố tài liệu tuyệt mật này ra công
chúng với sự trợ giúp của một người bạn từng làm cho tập đoàn RAND tên
là Anthony Russo. Hai người từng gặp nhau tại Sài Gòn, tại đây họ đã bị tác
động theo nhiều cách khác nhau trước hiện thực khốc liệt của cuộc chiến