“sách luật Moses.” Các bài đọc do Ezra Thầy thông giáo thực hiện, khi
đứng “trên cái bục bằng gỗ người ta đã dựng trong dịp này.” Nhờ những bài
đọc gây ra cảm xúc mạnh mẽ ấy mà một giao ước mới và trang trọng được
soạn ra, được mọi người ký kết và tuyên thệ, cả đàn ông lẫn đàn bà, từ con
trai đến con gái họ, tự coi mình là chính thống, “tất cả những kẻ đã khôn
lớn.”
Tóm lại, giao ước mới, có thể nói là đã mở đầu cho Do Thái giáo một cách
chính thức và hợp pháp, không dựa trên mặc khải hay giảng đạo mà dựa
trên một văn bản viết. Điều đó có nghĩa đấy là một phiên bản chính thức,
được cho phép, chính xác và đã được xác minh. Và điều đó có nghĩa đấy là
sự phân loại, lựa chọn và biên tập cái kho tư liệu khổng lồ về lịch sử, chính
trị và tôn giáo mà người Do Thái đã tích lũy được. Họ biết đọc biết viết vào
một giai đoạn rất sớm trong lịch sử của mình. Sách Thủ lĩnh cho chúng ta
biết rằng khi Gideon ở Succoth, ông chộp được một anh chàng và hỏi anh
ta về nơi này, anh ta viết cho Gideon tên của tất cả địa chủ và người cao
tuổi ở địa phương, “bảy mươi bảy người.”
thời đó có thể đọc được chút ít.
Ở thành phố, mức độ biết đọc biết viết cao
và nhiều người là tác gia không chuyên, ghi lại các câu chuyện mà họ đã
nghe hoặc các cuộc phiêu lưu và trải nghiệm về cả tâm linh lẫn thế tục của
chính mình. Hàng trăm nhà tiên tri cho chép lại các câu nói của mình, số
lượng sách sử và biên niên sử là vô cùng lớn. Người Israel không phải là
những thợ thủ công, hoạ sĩ hay kiến trúc sư tài ba. Nhưng viết lách là thói
quen quốc gia của họ, gần như là nỗi ám ảnh của họ. Họ có lẽ đã viết ra
lượng văn chương lớn nhất thời cổ đại, trong đó Cựu ước chỉ là một mảnh
nhỏ.
Tuy nhiên, người Do Thái coi văn chương là một hoạt động giáo huấn,
mang mục đích tập thể. Nó không phải là một hành động để một cá nhân tự
chiều chuộng mình. Hầu hết những sách trong Kinh Thánh được gán cho
tác giả cá nhân, nhưng người Do Thái ban phép và quyền hạn tập thể cho
những sách được họ ủng hộ. Cốt lõi văn chương của họ luôn là cộng đồng,