Mishnah - là đối tượng tranh cãi không dứt giữa các học giả trong hơn
1.000 năm qua.
Tất nhiên, ngay sau khi Mishnah được hoàn thành, có thêm các thế hệ học
giả - những người mà, nên nhớ rằng phải xác định lý thuyết pháp luật dựa
trên các trường hợp thực tế - bắt đầu chú giải nó. Vào lúc này, vì các
phương pháp giáo sĩ đã lan tới Babylon, nên có hai trung tâm chú giải ở
Eretz Israel (vùng đất Israel) và ở các học viện Babylon. Cả hai nơi đều cho
ra các cuốn Talmud, từ này có nghĩa là “nghiên cứu” hay “học tập,” được
biên soạn bởi nhiều thế hệ thời amoraim. Talmud Jerusalem, chính xác hơn
phải gọi là Talmud của phía tây, được hoàn thành vào cuối thế kỷ 4, và
Talmud Babylon thì một thế kỷ sau đó. Mỗi cuốn có các trang chú giải
những bài luận của Mishnah. Nó tạo nên lớp thứ ba.
Sau đó, có thêm các lớp khác được bổ sung: Perushim, hay chú giải, về cả
hai cuốn Talmud, trong đó ví dụ nổi bật là chú giải của Rashi về Talmud
Babylon vào thế kỷ 11; và Hiddushim hay truyện ngắn, so sánh và dung
hoà các nguồn khác nhau, nên đưa ra các phán quyết mới hay halakhot,
dạng truyện ngắn kinh điển được soạn trên Talmud Babylon vào các thế kỷ
12-13. Còn một lớp khác là responsa prudentium (She’elot u-Teshuvot) hay
các câu trả lời viết của các học giả hàng đầu trước các câu hỏi dành cho họ.
Lớp cuối cùng bao gồm các nỗ lực đơn giản hóa và hệ thống hóa khối tài
liệu khổng lồ này, được tiến hành bởi các học giả lẫy lừng như Isaac Alfasi,
Maimonides, Jacob ben Asher và Joseph Caro, từ thế kỷ 11 đến 16. Từ thế
kỷ 5 đến 11, được gọi là giai đoạn của các gaon hay geonim, các học giả
viết ra những phán quyết tập thể và những tác phẩm mang dấu ấn tri thức
của các học viện. Sau này, vào thời được gọi là kỷ nguyên giáo sĩ, các phán
quyết được phi tập trung hóa và các học giả cá nhân thống trị việc phát
triển Luật Moses. Cuối cùng, từ thế kỷ 16 đến cuối 18 là kỷ nguyên của
aharonim hay các học giả sau này.