nên đã lập ra một đảng mới (1965), và khi nó thất bại, ông rút về ở ẩn trong
bực bội tại kibbutz Sedeh Boker của mình.
Không như Herzl, Weizmann và kể cả Jabotinsky, Ben Gurion không coi
mình là người châu Âu mà là người Trung Đông Do Thái, ông đặt niềm tin
vào sabra, tức người Do Thái sinh ra tại Israel thuộc dòng dõi tiên phong,
sẽ biến Israel từ một thuộc địa châu Âu thành một quốc gia châu Á thực sự,
nhưng độc đáo. Ông là một Moses với một thông điệp không lấy gì làm
vui, đó là mang đến cho người dân nước mình máu và nước mắt, lao động
cật lực đến cạn mồ hôi. “Đây chưa phải là một dân tộc, chưa đâu,” ông nói
vào lúc cuối đời năm 1969.
Đây là những người lưu vong vẫn sống ở sa mạc đang khát khao cuộc sống sang trọng của Ai
Cập. Họ chưa thể được coi là một dân tộc cho đến khi Negev và Galilee được định cư, cho
đến khi hàng triệu người Do Thái di cư tới Israel, và cho đến khi các tiêu chuẩn đạo đức cần
thiết cho một nền chính trị đạo đức và các giá trị cao của chủ nghĩa Zion được duy trì. Đây
không phải một đám đông mà cũng chẳng phải một dân tộc. Họ là những người vẫn bị xiềng
xích vào quá khứ lưu vong của mình - được cứu chuộc nhưng không mãn nguyện.
Song, tinh thần sôi nổi của phong trào Công Đảng vẫn là chủ nghĩa xã hội
châu Âu. Đây là đảng của các trí thức thành phố, dùng kibbutz của mình
làm nhà nghỉ cuối tuần. Đây là tầng lớp trung lưu về mặt văn hóa, có học
vấn đại học. Đối với công nhân, nhất là những người nhập cư Sephardi gốc
Phi-Á, phong trào phô ra gương mặt bề trên có thiện chí, kiên nhẫn giải
thích điều gì là tốt với họ, khá giống với cách Rosa Luxemburg đã từng cố
gắng rao giảng trước tầng lớp vô sản Đức. Họ là những nhà quý tộc tự
nhiên của quốc gia mới, hay có lẽ nên gọi họ là một tầng lớp giáo sĩ thế tục.
Dần dà, một sự khác biệt về trang phục xuất hiện giữa chính phủ và phe đối
lập. Chính khách Công Đảng mặc áo sơ mi hở cổ mộc mạc. Đảng Likud
của Begin vận com-lê và cà vạt. Đó là sự khác biệt giữa giới trí thức xã hội
chủ nghĩa với giới dân túy bản năng.